Didier Drogba
| |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Didier Yves Drogba Tébily | ||
Chiều cao | 1,88 m (6 ft 2 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ][1] | ||
Vị trí | Tiền đạo | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Galatasaray | ||
Số áo | 12 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1996–1997 | Levallois | ||
1997–1998 | Le Mans | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1998–2002 | Le Mans | 64 | (12) |
2002–2003 | Guingamp | 45 | (20) |
2003–2004 | Marseille | 35 | (19) |
2004–2012 | Chelsea | 226 | (100) |
2012-2013 | Thân Hoa Thượng Hải | 11 | (8) |
2013- | Galatasaray | 0 | (0) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2002– | Côte d'Ivoire | 93 | (59) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 26 tháng 1, 2013 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 26 tháng 1, 2013 (UTC) |
Didier Drogba, tên đầy đủ là Didier Yves Drogba Tébily (sinh 11 tháng 3 năm 1978), là cầu thủ bóng đá người Côte d'Ivoire (Bờ Biển Ngà), anh hiện là cầu thủ của câu lạc bộ Galatasaray.
Anh là vua phá lưới Premier League mùa bóng 2006-07 với 20 bàn thắng và mùa bóng 2009-2010 với 29 bàn thắng, và là Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi hai năm 2006 và 2009.
Là một trong những Tiền đạo trung phong xuất sắc nhất thế giới, anh có đầy đủ phẩm chất của một tiền đạo siêu sao: khả năng càn lướt, tốc độ, bản năng săn bàn và nhãn quan chiến thuật rất tốt. Anh nổi tiếng với khả năng vô địch trong tranh chấp tay đôi và dứt điểm không cần nhìn khung thành đối phương.
Phần lớn thời gian sự nghiệp đỉnh cao của Drogba là tại CLB Chelsea, tại Chelsea anh được coi như một biểu tượng lớn và được bình chọn là tiền đạo xuất sắc nhất lịch sử CLB. Đặc biệt trong trận đấu cuối cùng của anh cho Chelsea, trận chung kết UEFA Champions League 2012 với Bayern Munich, anh đóng vai như người hùng khi đánh đầu cân bằng tỉ số 1-1 cho Chelsea trong những phút cuối hiệp 2, sau 2 hiệp phụ hòa nhau, Chelsea đánh bại Bayern Munich bằng loạt đá luân lưu, Drogba là người thực hiện thành công lượt đá cuối và lần đầu tiên cùng CLB Chelsea đăng quang giải đấu danh giá UEFA Champions League.
Drogba cũng rất nổi tiếng bởi những hoạt động xã hội ngoài bóng đá. Tại quê nhà Bờ Biển Ngà, anh được người dân tôn vinh như người hùng khi đứng ra nỗ lực kêu gọi hòa bình, chấm dứt nội chiến trên quê hương vào năm 2006 để tập trung vào World Cup đang diễn ra. Người dân Bờ Biển Ngà rất hâm mộ Drogba, vì vậy tất cả các phe xung đột đều tự nguyện bỏ vũ khí khi Drogba kêu gọi hòa bình. Anh bỏ tiền ra xây nhiều bệnh viện, trường học và viện trợ nhân đạo cho đất nước Bờ Biển Ngà và được nhân dân, chính phủ vô cùng mến mộ.
Tạp chí uy tín Time (Mỹ) bầu chọn là một trong “100 người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2010”. Đáng chú ý, cựu tiền đạo The Blues được tạp chí Time bầu chọn trong danh mục “người hùng” (25 người) bên cạnh cựu Tổng thống Mỹ Clinton, ngôi sao điện ảnh Lý Liên Kiệt hay danh hài Ben Stiller.
Thời thơ ấu
Sinh tại Abidjan, Didier Drogba trải qua thời thơ ấu tại Bờ Biển Ngà và nước Pháp. Tito, biệt danh mà bạn bè và gia đình thường gọi, rời quê nhà khi mới 5 tuổi. Anh đến Brest thuộc vùng Brittany ở cùng ông chú, Michel Goba, một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Drogba sống ở Pháp 3 năm, cùng với chú ở Brest, Angoulême và Dunkerque trước khi trở về quê hương.
Do suy thoái kinh tế ở quê nhà nên anh trở lại sống với chú ở Dunkerque, tiếp tục có dịp đi vòng quanh nước Pháp. Thời điểm đó anh bắt đầu chơi bóng đá. Năm 1991 cha mẹ anh cũng đến Pháp, trước tiên tới Vannes và năm 1993 định cư tại Antony thuộc vùng ngoại ô Paris. Đó là lúc cậu thiếu niên 15 tuổi Drogba đoàn tụ với gia đình. Ban đầu anh đăng kí vào câu lạc bộ địa phương Levallois, và khi trình độ nâng cao, chơi cho đội bóng tại National 2, giải hạng Tư của Pháp năm 18 tuổi.
Sự nghiệp cầu thủ
Le Mans và Guingamp
Drogba khoác áo Le Mans năm 19 tuổi (1998), lúc này câu lạc bộ còn chơi ở Ligue 2, giải hạng Hai của Pháp. Đến mùa bóng 2001-02 anh chuyển sang chơi cho Guingamp tại Ligue 1. Mùa tiếp theo Drogba ghi được 17 bàn thắng và giúp Guingamp kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 7, một kỉ lục đối với câu lạc bộ. Thành tích này đã khiến Olympique de Marseille, một trong những câu lạc bộ lớn nhất nước Pháp, kí hợp đồng với anh năm 2003.
Olympique de Marseille
Marseille có một mùa bóng khởi đầu vất vả và huấn luyện viên Alain Perrin, người đã kí hợp đồng đưa Drogba về từ Guingamp, sớm bị thay thế bằng José Anigo. Tuy nhiên, Drogba vẫn thể hiện một phong độ ổn định, ghi 19 bàn thắng và giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất giải vô địch Pháp. Trên đấu trường châu Âu, anh ghi 5 bàn tại Champions League và 6 bàn tại Cúp UEFA, tổng cộng là 30 bàn trong mùa bóng. Anh cùng câu lạc bộ về nhì tại Cúp UEFA khi Marseille thua Valencia ở chung kết. Màn trình diễn ấn tượng mùa bóng này làm các câu lạc bộ lớn hơn chú ý đến Drogba (nhất là các bàn thắng tại Cúp UEFA gặp Liverpool và Newcastle). Cuối mùa (2004) anh chuyển đến Chelsea với mức giá kỉ lục của câu lạc bộ lúc đó là 24 triệu bảng Anh (kỉ lục hiện giờ của Chelsea là hợp đồng mua Fernando Torres khoảng 50 triệu bảng năm 2010).
Chelsea
Drogba nhanh chóng thích ứng với môi trường mới, ghi bàn ngay trận thi đấu thứ 3 cho Chelsea. Mặc dù gặp vấn đề về sức khoẻ nhưng trong mùa bóng 2004-05, Drogba đã ghi 16 bàn trong 40 trận đá cho Chelsea, có tỉ lệ ghi bàn / thời gian thi đấu nhiều thứ hai chỉ sau Thierry Henry. Mùa bóng này cũng là mùa bóng thành công với Chelsea khi họ giành chức vô địch quốc gia đầu tiên sau 50 năm.
Mùa bóng tiếp theo (2005-06), Drogba tiếp tục thể hiện phong độ ổn định với 16 bàn thắng cho câu lạc bộ và 11 đường kiến tạo thành bàn thắng. Drogba đã có lúc có ý định quay về Marseille khi bị báo giới Anh kì thị, tuy nhiên cuối cùng anh vẫn ở lại Chelsea. Vào cuối mùa bóng, với sự ra đi của tiền đạo Hernán Crespo và tiền vệ cánh Damien Duff cùng với sự thay đổi chiến thuật của huấn luyện viên Mourinho từ 4-3-3 sang 4-4-2, vị trí của Drogba ở đội hình chính càng vững chắc khi anh là lựa chọn số một để đá cặp với đồng đội mới Andriy Shevchenko. Anh có danh hiệu vô địch Premier League thứ hai liên tiếp với Chelsea.
Sau khi Damien Duff rời Chelsea, Drogba tiếp quản áo số 11 của Duff. Mùa bóng 2006-07 là mùa bóng thành công với cá nhân Drogba khi anh ghi tới 33 bàn trên các mặt trận (hơn cả 2 mùa trước cộng lại). Anh trở thành cầu thủ Chelsea đầu tiên sau Kerry Dixon mùa bóng 1984-85 ghi hơn 30 bàn trong một mùa giải.
Đầu năm 2007 Drogba nhận được các giải thưởng: Cầu thủ xuất sắc nhất Bờ Biển Ngà, Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi lần đầu tiên (vượt qua tiền đạo Cameroon của Barcelona Samuel Eto'o và đồng đội tại Chelsea, cầu thủ Ghana Michael Essien.[2]
Anh cũng có tên trong Đội hình tiêu biểu giải ngoại hạng Anh và đứng thứ nhì (sau Cristiano Ronaldo) trong cuộc bầu chọn Cầu thủ xuất sắc nhất giải ngoại hạng Anh do Hiệp hội cầu thủ chuyên nghiệp Anh (PFA) tổ chức.[3]
2010-2011
Mở đầu giải ngoại hạng Anh, anh đã lập một cú hat-trick giúp Chelsea giành chiến thắng 6-0 trước West Brom. Anh lại tiếp tục tỏa sáng ở trận tiếp theo sau khi có 3 lần kiến tạo thành bàn giúp Chelsea thắng 6-0 trước Wigan. Tuy nhiên kể từ sau đó anh bị một căn bệnh sốt rét và phải nghỉ nhiều trận. Dù anh đã trở lại thi đấu nhưng vẫn chưa hoàn toàn khỏi bệnh nên không đóng góp nhiều cho Chelsea ở mùa giải này. Đây là mùa giải đáng quên nhất của anh cũng như Chelsea khi đội đã trắng tay tại mùa giải này.
2011-2012
Drogba bị chấn thương nên phải tới trận gặp Swansea City anh mới trở lại, ngay lập tức anh đã có bàn thắng cho Chelsea trong trận thắng 4-1.
29/11/11, Drogba ghi bàn thắng thứ 150 trong màu áo của Chelsea san bằng kỷ lục của Roy Bentley và Peter Osgood. Drogba tiếp tục có bàn thắng thứ 100 tại giải Ngoại hạng Anh trong màu áo Chelsea trong trận thắng 1-0 trước Stoke City
Anh thường phải ngồi dự bị dưới thời của HLV André Villas-Boas nhưng chỉ khi đến thời HLV Roberto Di Matteo anh mới trở lại cực kỳ ấn tượng.
Đầu tiên là anh có một bàn thắng rất đẹp mắt vào lưới của Tottenham trong trận bán kết Cúp FA, Chelsea đã thắng 5-1 ở trận đấu đó. 3 ngày sau đó anh lại lập công cho Chelsea trong trận bán kết Champion League gặp Barcelona, nhận đường chuyền bên cánh trái của Ramires anh đã không bỏ lỡ cơ hội và ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu giúp Chelsea thắng 1-0. Drogba tiếp tục tỏa sáng trong trận chung kết Cúp FA giúp Chelsea thắng 2-1 trước Liverpool và giành vô địch Cúp FA.
19/5/2012, trong trận chung kết Champion League gặp Bayern Munich, dù Chelsea đã bị thủng lưới trước ở phút thứ 84 nhưng Chelsea đã không từ bỏ. Phút thứ 88, từ pha phạt góc duy nhất của Chelsea trong trận đấu, Mata sút phạt góc rồi Drogba bật cao đánh đầu giúp Chelsea gỡ hòa 1-1. Trận đấu đã không có chuyển biến ở hiệp phụ buộc phải bước sang loạt sút luân lưu cân não, sau khi Bastian Schweinsteiger của Bayern Munich sút hỏng quả thứ 5, Drogba chỉ cần sút thành công quả thứ 5 là Chelsea giành vô địch, anh lạnh lùng đánh lừa được thủ môn Manuel Neuer, bóng nhẹ nhàng đi vào lưới giúp Chelsea lần đầu tiên đăng quang tại Champion League. Và đây cũng là trận cuối cùng anh thi đấu cho Chelsea.
22/5/2012, trang chủ của Chelsea thông báo chính thức anh sẽ không ký thêm hợp đồng với Chelsea và sẽ chia tay CLB trong hè này. Vậy sau 8 năm gắn bó, anh đã phải chia tay CLB ngay sau ghi cùng Chelsea vô địch Champion League. Anh đã chơi tổng cộng 341 trận và ghi được 157 bàn thắng (vượt qua Roy Bentley và Peter Osgood). Sau khi tuyên bố rời Chelsea anh tự tiến cử Fernando Torres sẽ thay mình làm tiền đạo.
Thân Hoa Thượng Hải
19/6/2012, Drogba chính thức gia nhập CLB Thân Hoa Thượng Hải của Trung Quốc theo dạng chuyển nhượng tự do. Bản hợp đồng có thời hạn 2.5 năm và anh sẽ được nhận mức lương 200.000 Bảng/tuần và ở đây anh cũng được gặp lại người đồng đội cũng từng ở Chelsea là Nicolas Anelka.
Galatasaray
28/1/2013, Drogba chính thức gia nhập CLB Galatasaray của Thổ Nhĩ Kỳ theo dạng chuyển nhượng tự do. Bản hợp đồng có thời hạn 1.5 năm và ở đây anh cũng được gặp lại cầu thủ đồng hương trong màu áo Đội tuyển quốc gia là Emmanuel Eboué
Tại Galatasaray, tuy đã bước qua tuổi 35 nhưng Drogba vẫn có một phong độ chói sáng giúp Galatasaray đoạt chức vô địch quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ mùa giải 2012-2013.
Đội tuyển quốc gia
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Câu lạc bộ | Mùa giải | Ligue 2 | Coupe de France | Coupe de la Ligue | Châu âu | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Le Mans | 1998–99 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 |
1999–00 | 30 | 7 | 0 | 0 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 32 | 7 | |
2000–01 | 11 | 0 | 3 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 14 | 1 | |
2001–02 | 21 | 5 | 1 | 1 | 2 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 24 | 7 | |
Tổng cộng | 64 | 12 | 4 | 2 | 4 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 72 | 15 | |
Câu lạc bộ | Mùa giải | Ligue 1 | Coupe de France | Coupe de la Ligue | Châu âu | Khác | Tổng cộng | ||||||
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Guingamp | 2001–02 | 11 | 3 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 11 | 3 |
2002–03 | 34 | 17 | 3 | 4 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 39 | 21 | |
Tổng cộng | 45 | 20 | 3 | 4 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 50 | 24 | |
Câu lạc bộ | Mùa giải | Ligue 1 | Coupe de France | Coupe de la Ligue | Châu âu | Khác | Tổng cộng | ||||||
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Marseille | 2003–04 | 35 | 19 | 2 | 1 | 2 | 1 | 16 | 11 | 0 | 0 | 55 | 32 |
Tổng cộng | 35 | 19 | 2 | 1 | 2 | 1 | 16 | 11 | 0 | 0 | 55 | 32 | |
Câu lạc bộ | Mùa giải | Premier League | FA Cup | League Cup | Châu âu | Khác | Tổng cộng | ||||||
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Chelsea | 2004–05 | 26 | 10 | 2 | 0 | 4 | 1 | 9 | 5 | 0 | 0 | 41 | 16 |
2005–06 | 29 | 12 | 3 | 1 | 1 | 0 | 7 | 1 | 1 | 2 | 41 | 16 | |
2006–07 | 36 | 20 | 6 | 3 | 5 | 4 | 12 | 6 | 1 | 0 | 60 | 33 | |
2007–08 | 19 | 8 | 1 | 0 | 1 | 1 | 11 | 6 | 0 | 0 | 32 | 15 | |
2008–09 | 24 | 5 | 6 | 3 | 2 | 1 | 10 | 5 | 0 | 0 | 42 | 14 | |
2009–10 | 32 | 29 | 4 | 3 | 2 | 2 | 5 | 3 | 1 | 0 | 44 | 37 | |
2010–11 | 36 | 11 | 2 | 0 | 0 | 0 | 7 | 2 | 1 | 0 | 46 | 13 | |
2011–12 | 24 | 5 | 3 | 2 | 0 | 0 | 8 | 6 | 0 | 0 | 35 | 13 | |
Tổng cộng | 226 | 100 | 27 | 12 | 15 | 9 | 69 | 34 | 4 | 2 | 341 | 157 | |
Tổng sự nghiệp | 370 | 151 | 36 | 19 | 23 | 11 | 65 | 45 | 4 | 2 | 518 | 228 |
Đội tuyển quốc gia
Đội tuyển quốc gia | Năm | Giao hữu | Giải đấu quốc tế |
Tổng cộng | |||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Côte d'Ivoire | |||||||
2002 | 0 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 | |
2003 | 4 | 1 | 3 | 3 | 7 | 4 | |
2004 | 3 | 3 | 4 | 3 | 7 | 6 | |
2005 | 3 | 1 | 5 | 6 | 8 | 7 | |
2006 | 7 | 4 | 7 | 4 | 14 | 8 | |
2007 | 6 | 3 | 2 | 1 | 8 | 4 | |
2008 | 2 | 1 | 6 | 3 | 8 | 4 | |
2009 | 2 | 2 | 5 | 6 | 7 | 8 | |
2010 | 5 | 2 | 5 | 2 | 10 | 4 | |
Tổng sự nghiệp | 32 | 17 | 39 | 28 | 71 | 45 |
Bàn thắng quốc tế
Danh hiệu
Câu lạc bộ
- UEFA Champions League: 2011-12
- FA Premier League: 2004-05, 2005-06, 2009-10
- FA Cup: 2006-07, 2008-09, 2009-10, 2011-12
- FA Community Shield: 2005, 2009
- Football League Cup: 2004-05, 2006-07
Cá nhân
- Bàn chân vàng : 2013
- Onze d'Or: 2004
- UEFA Cup Top Scorer: 2004
- Ligue 1 Goal of the Year: 2004
- Ligue 1 Team of the Year: 2004
- Ligue 1 Player of the Year: 2004
- Cầu thủ xuất sắc nhất Côte d'Ivoire: 2006, 2007
- Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi: 2006, 2009
- Vua phá lưới Premier League: 2006-07, 2009-10
- UEFA Team of the Year: 2007
- ESM Team of the Year: 2007
- PFA Team of the Year: 2007
- FIFPro World XI: 2007
- BBC African Footballer of the Year: 2009
- Ivory Coast all-time Top Scorer
- Ghi bàn nhiều nhất giải ngoại hạng Anh 2010: 29 bàn
Thành tích
Xem thêm
Chú thích
- ^ “Chelsea profile”. Chelsea. 16 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2008.
- ^ “African player award”. BBC. 3 tháng 1, 2007. Truy cập 3 tháng 1, 2007.
- ^ “Ronaldo secures PFA awards double”. BBC. 22 tháng 4, 2007. Truy cập 13 tháng 5, 2007.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Didier Drogba. |