Bước tới nội dung

Fernando Torres

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do Zinger (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 12:19, ngày 28 tháng 7 năm 2013 (Mấy lần trước chưa biết dẫn nguồn,giờ vào mới để ít có rất ít nguồn,dẫn thêm + viết thêm). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

Fernando Torres
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Fernando José Torres Sanz[1]
Chiều cao 1,85 cm (1 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ][2]
Vị trí Tiền đạo
Thông tin đội
Đội hiện nay
Chelsea
Số áo 9
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1995–2001 Atlético Madrid
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2001–2007 Atlético Madrid 214 (82)
2007–2011 Liverpool 102 (65)
2011- Chelsea 82 (15)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2000 U-15 Tây Ban Nha 1 (0)
2001 U-16 Tây Ban Nha 9 (11)
2001 U-17 Tây Ban Nha 4 (1)
2001 U-18 Tây Ban Nha 1 (1)
2002 U-19 Tây Ban Nha 5 (6)
2002–2003 U-21 Tây Ban Nha 10 (3)
2003– Tây Ban Nha 101 (31)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 15:52, 13 tháng 1 năm 2011 (UTC)
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 15:52, 13 tháng 1 năm 2011 (UTC)

Fernando José Torres Sanz (sinh ngày 20 tháng 3 năm 1984) là một cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha hiện đang chơi cho Chelsea. Anh sinh ra tại Fuenlabrada, một thị xã ngoài ô của Madrid và đã là cầu thủ trẻ nhất chơi cho Atlético Madrid và là cầu thủ trẻ nhất thành đội trưởng (lúc 19 tuổi). Biệt danh của anh là "El Niño" (đứa trẻ) nhằm để chỉ sự xuất hiện của anh ở La Liga như một hiện tượng cuồng phong mạnh mẽ.

Torres đã ghi 75 bàn trong 5 mùa giải của Tây Ban Nha, chỉ có Samuel Eto'oDavid Villa là ghi nhiều bàn hơn trong một thời kỳ. Torres cũng chơi hai mùa ở giải hạng 2 Tây Ban Nha, và anh đã ghi được 7 bàn trong 40 trận đấu.

Ngày 29 tháng 6 năm 2008 Torres ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết với đội tuyển Đức. Tây Ban Nha trở thành vô địch bóng đá châu Âu 2008. Nhờ những thành tích nổi bật trong năm, anh xếp thứ ba trong cuộc bình chọn Quả bóng vàng châu Âu 2008. Ngày 2/7/2012 Torres ghi bàn thắng nâng tỉ số lên 3-0 và kiến tạo cho đồng đội ghi bàn góp phần vào chiến thắng 4-0 trước tuyển Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Đưa Tây Ban Nha đi vào lịch sử với tư cách là đội bóng đầu tiên vô địch 2 kì Euro liên tiếp. Riêng cá nhân Torres anh nhận danh hiệu chiếc giày vàng(vua phá lưới) ở giải đấu và đi vào lịch sử bóng đá thế giới là cầu thủ ghi bàn ở 2 trận chung kết Euro(2008,2012).

Tuổi thơ

Sinh ở Madrid, Torres có hứng thú với bóng đá từ khi chỉ là một đứa trẻ và gia nhập đội thị xã, Parque 84, khi mới 5 tuổi. Bố anh Jose luôn phải đi làm khi Torres còn là một đứa trẻ, do vậy mẹ anh Flori thường đưa anh tới sân tập. Ông của anh không phải một cổ động viên cuồng nhiệt của bóng đá, nhưng vẫn tự hào là một cổ động viên của Atletico Madrid, và Torres đã thừa hưởng tình yêu với đội bóng.

Torres đến với bóng đá ở vị trí thủ môn, vị trí mà anh trai anh chơi. Tuy nhiên khi anh 7 tuổi anh lại thường chơi ở vị trí tiền đạo ở một giải đấu trong nhà cho câu lạc bộ địa phương của anh, Mario's Holland.3 năm sau, khi anh 10 tuổi, anh được chọn và đội 11 người, Rayo 13.Anh ghi 55 bàn trong mùa giải và là 1 trong 3 cầu thủ Rayo 13 được chọn vào Atletico Madrid.Anh rất hứng thú và gia nhập đội bóng vào năm 1995.

Sự nghiệp câu lạc bộ

Atletico Madrid

Torres phản ứng với trọng tài trong một trận đấu cùng Atletico

Sau những tiến bộ vượt bậc, Torres có danh hiệu quan trọng cùng đội trẻ đầu tiên vào năm 1998.Atletico Madrid gửi đội U-15 để tham dự giải Nike Cup, ở Tây Ban Nhachâu Âu, để đấu với đội trẻ từ các câu lạc bộ khác.Atletico vô địch giải đấu. Anh sau đó được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu ở lứa tuổi đó.Vào năm 1999, Torres kí hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên cùng Atletico Madrid.Anh dành năm đầu chơi ở đội trẻ và chuyển lên để tham dự giải hạng nhất khi anh mới 16.Vào mùa giải 2000-01 anh có sự khởi đầu tồi tệ, khi Torres bị dính chấn thương ống chân khiến anh phải rời xa sân cỏ tới tháng 12.Torres tập cùng đội 1 để chuẩn bị cho mùa giải kế tiếp, nhưng cuối cùng anh lại có trận đấu đầu tiên vào ngày 27 tháng 5 năm 2001, ở sân Vicente Calderon, tiếp CD Leganes.Một tuần sau, anh ghi bàn đầu tiên cho câu lạc bộ khi tiếp Albacete Balompie và mùa giải đó Atletico đã không thể được lên chơi ở La Liga.

Atletico được lên chơi ở La Liga ở cuối mùa giải 2001-02.Torres không thi đấu tốt ở mùa giải đó, khi anh chỉ ra sân 6 trận trong tổng cộng 36 trận ở Segunda Divison.Mùa giải 2002-03 đối với Torres có tốt hơn, dù sao, anh ghi 12 bàn trong 29 lần ra sân và Atletico Madrid kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 11.Vào mùa giải 2003-04, mùa giải thứ 2 của anh ở La Liga, Torres có bước tiến lớn, ghi 19 bàn trong 35 lần ra sân, có nghĩa anh đứng thứ 3 trong danh sách vua phá lưới của giải đấu. Anh cùng tiền đạo người Hi Lạp Demis Nikolaidis tạo thành một bộ đôi tấn công ăn ý. Hai cầu thủ này bổ sung cho nhau, tạo khoảng trống và cơ hội cho mỗi người rồi cùng nhau ghi 26 bàn. Ở tuổi 19, Torres chính thức là đội trưởng của Atletico Madrid.Atletico Madrid năm đó đã bị loại khỏi cúp UEFA từ vòng bảng, nhưng kết thúc mùa giải với vị trí thứ 7 vảo năm 2004, họ được tham dự vòng loại cúp Intertoto, và Torres là ngôi sao sáng nhất của giải đấu. Anh ghi 2 bàn trong 2 trận tiếp OFK Beograd, với 1 bàn ở mỗi lượt.Atletico Madrid đi tới trận chung kết, nhưng thất bại trên chấm phạt đền trước Villarreal CF.Đương kim vô địch Premier League Chelsea tin tưởng rằng họ sẽ có được Torres vào năm 2005, nhưng chủ tịch Atletico Madrid Enrique Cerezo cho biết họ không có cơ hội để chiêu mộ anh. Cerezo sau đó vào tháng 1 năm 2006 nói rằng câu lạc bộ sẽ xem xét các mức giá dành cho Torres, và Torres khẳng định Newcastle United đã đưa ra mức giá cho anh vào tháng 3.

Torres chơi cho đội tuyển Tây Ban NhaWorld Cup 2006.Sau World Cup anh cho biết đã từ chối lời đề nghị gia nhập Chelsea vào cuối mùa giải 2005-06.Torres ghi 14 bàn trong giải quốc nội ở mùa giải 2006-07, nhưng tương lai của anh ở Atltico một lần nữa lại là chủ đề đặc biệt khi câu lạc bộ thất bại trong việc đăng quang cúp UEFA.Các hãng thông tấn Anh đưa tin rằng anh đang muốn chuyển đến Liverpool, nhưng Cerezo cho biết, "Chúng tôi chưa nhận được lời đề nghị nào từ Liverpool hay bất kì đội bóng nào cho cậu ấy". Tuy nhiên, chỉ vào ngày sau, các hãng thông tấn lại đưa tin Atletico đã đạt được thoả thuận với Liverpool về Torres. Mức giá được đồn là vào khoảng 25 triệu bảng Anh cộng với Luis Garcia chuyển đến Atletico như một phần của cuộc chuyển nhượng.Vào ngày 30 tháng 6, Atletico thông báo đã mua được Diego Forlan từ Villarreal, đó như là một sự thay thế cho Torres trước khi anh chính thức ra đi.Vào ngày 2 tháng 7, thông tin cho rằng Torres đã cắt ngắn kì nghỉ để bay tới Madrid để hoàn thành việc chuyển tới Liverpool.Vài ngày sau, Torres vượt qua cuộc kiểm tra sức khoẻ ở Liverpool.Anh có một buổi lễ ở Madrid vào ngày 4 tháng 7 để chia tay cổ động viên Atletico, trước khi hoàn thành việc chuyển tới Liverpool với bản hợp đồng 6 năm. Đó là mức giá chuyển nhượng kỉ lục trong lịch sử Liverpool.Vào tháng 3 năm 2008, huấn luyện viên Rafael Benítez cho biết trong một cuộc phỏng vấn cho tờ The Times rằng mức giá của Torres vào khoảng 20 triệu bảng Anh, mặc dù vụ chuyển nhượng này có cả việc Garcia chuyển tới Atletico.

Liverpool

Torres chơi cho Liverpool trong trận tiếp Middlesbrough vào ngày 23 tháng 2 năm 2008, trận đó anh ghi một cú Hat-trick

Torres có trận đấu chính thức đầu tiên cho Liverpool trong trận tiếp Aston Villa, trận đó Liverpool thắng 2-1 vào ngày 11 tháng 8 năm 2007.Anh có trận đấu đầu tiên ở cúp Champions League 4 ngày sau đó trong trận thắng Toulouse FC, sau khi vào sân ở phút 79.Bàn thắng đầu tiên của anh ở Premier League trên sân Anfield đến vào ngày 19 tháng 8, vào phút thứ 16 của trận hoà với Chelsea.Cú Hat-trick đầu tiên của anh là trong trận thắng 4-2 trước Readingcúp liên đoàn vào tháng 9, tất cả bàn thắng anh ghi được đều đến trong hiệp 2.Bàn đầu tiên của anh ở cúp Champions League đến trong trận đấu thứ 3 của anh ở giải đấu khi đánh bại FC Porto 4-1, trận đó anh ghi 2 bàn.

Anh là cầu thủ xuất sắc nhất Premier League tháng 2, khi anh ghi 4 bàn trong 2 trận, bao gồm một cú hattrick trong trận tiếp Middlesbrough vào ngày 23 tháng 2 năm 2008.Cú hattrick này và một trận thắng 4-0 trước West Ham United vào ngày 5 tháng 3 năm 2008 có nghĩa anh trở thành cầu thủ đầu tiên của Liverpool kể từ thời Jackie Balmer vào tháng 11 năm 1946 ghi một cú hattrick trong 2 trận liền ở sân nhà. Sau đó vào tháng 3, sau khi anh ghi một cú đánh đầu trong trận tiếp ReadingAnfield, anh trở thành cầu thủ đầu tiên của Liverpool kể từ thời Robbie Fowler ở mùa giải 1995-1996 ghi 20 bàn ở giải nội địa. Vào tháng 4, anh ghi một bàn khác ở Champions League, lần này là vào lưới Arsenal ở lượt về tứ kết, vào Liverpool lọt vào bán kết. Bàn thắng này nâng tổng số bàn thắng của anh trong mùa giải 2007-08 ở mọi mặt trận lên 29 bàn, vượt qua thành tích của Michael Owen.Vào ngày 11 tháng 4 năm 2008, Torres được nằm trong top 6 cầu thủ xuất sắc nhất của giải Premier League , sau đó Cristiano Ronaldo của Manchester United giành được.Đội tuyển Tây Ban Nha cũng có một thành viên khác được tôn vinh, đó là Cesc Fabregas của Arsenal được bầu là cầu trẻ xuất sắc nhất năm. Vào tháng 5, anh đứng thứ 2 sau Cristiano Ronaldo cho danh hiệu cầu thủ ghi nhiều bàn nhất.

Torres sau khi ghi bàn trong trận gặp Vålerenga tại sân Ullevaal, Na Uy

Vào ngày 4 tháng 5 năm 2008, Torres ghi bàn trong trận thắng Manchester City, sánh nang kỉ lục ghi bàn liên tiếp ở Anfield trong 8 trận với Roger Hunt.Sau khi ghi bàn thắng thứ 24 ở mùa giải trong trận đấu cuối cùng của mùa giải, thắng 2-0 trước Tottenham Hotspur, anh lập kỉ lục về số bàn thắng ghi được trong mùa giải đầu tiên chơi ở Premier League của cầu thủ nước ngoài, được lập bởi Ruud Van Nistelrooy với 23 bàn. Anh kết thúc mùa giải với vị trí thứ 2 cùng Emmanuel Adebayor trong danh sách vua phá lưới giải. Torres là một chủ đề bàn tán của dư luận khi Chelsea ra giá 50 triệu bảng Anh để mua anh nhưng Torres đã từ chối và cho biết còn nhiều năm nữa anh mới rởi Liverpool.Vị đồng chủ tịch Liverpool Tom Hicks phủ nhận vụ chuyển nhượng này, ông nói sẽ không cho phép Torres ra đi với bất cứ giá nào.

Torres có sự khởi đầu triển vọng ở mùa giải 2008-09, ghi bàn duy nhất trong trận thắng 1-0 trước Sunderland.Anh sau đó đã bị dính chấn thương gân kheo trong trận hoà 0-0 với Aston Villa, điều này khiến anh phải ngồi ngoài trong 3 tuần. Torres có sự trở lại trong trận thắng 2-1 trước Olympique Marseille ở Champions League và ghi bàn trong quyết định trong trận derby vùng Merseyside với Everton vào ngày 27 tháng 9 giúp Liverpool thắng 2-0.Anh tiếp tục đà thăng tiến với 2 bàn thắng trong trận thắng Manchester City ở tuần sau đó với tỉ số 3-2 ở sân khách sau khi Liverpool bị dẫn 2 bàn. Bàn đầu tiên đó là bàn thứ 1000 của Liverpool ở Premier League. Torres bị dính một chấn thương gân kheo trong trận đấu ở vòng loại World Cup 2010, có nghĩa anh sẽ phải bỏ lỡ 3 trận đấu cùng Liverpool.Vào ngày 22 tháng 10, Liverpool tiếp đội bóng cũ của Torres là Atletico de Madrid ở sân Vicente Calderon trong một trận đấu thuộc khuôn khổ UEFA Champions League, nhưng chấn thương đồng nghĩa với việc anh sẽ phải ngồi ngoài.Chủ tịch Atletico, Enrique Cerezo, đã mời anh ngồi ghế VIP để xem trận, nhưng anh đã từ chối để ở nhà dưỡng thương. Anh được bầu vào đội hình xuất sắc nhất mùa giải 2007-08 vào ngày 27 tháng 10.[4]

Torres đánh dấu sự trở lại cùng Liverpool khi vào sân ở phút 72 trong trận thắng 3-0 trước West Bromwich Albion.Anh nói anh muốn được trở về Atletico cuối cùng, anh nói "Tôi không biết tôi có giải nghệ ở đó không, nhưng tôi muốn trở lại và kết thúc những điều mà câu lạc bộ không làm được." Theo chẩn đoán anh sẽ phải ngồi ngoài từ 2 đến 3 tuần sau chiến thắng 1-0 của Liverpool trước Marseille ở Champions League vào tháng 11, khi anh bị dính chấn thương, nhưng sau đó chấn thương đã bị kéo dài ít nhất 4 tuần. Anh nằm trong danh sách cầu thủ xuât sắc nhất năm theo bình chọn của FIFA vào tháng 12, và cuối cùng anh đứng ở vị trí thứ 3 sau Cristiano RonaldoLionel Messi[5].Torres trở lại vào ngày 3 tháng 1 năm 2009 khi anh vào sân từ ghế dự bị vào ghi bàn trong trận thắng 2-0 trước Preston North End; bàn đầu tiên của anh ở cúp FA.Anh ghi 2 bàn thắng muộn cho Liverpool trong trận thắng 2-0 trước Chelsea vào ngày 1 tháng 2.Mặc dù mới chỉ có hơn 1 năm chơi cùng đội bóng, nhưng Torres vẫn được chọn vào danh sách 50 cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại của Liverpool theo The Times,củng cố niềm tin của anh với Liverpool chỉ trong một thời gian ngắn.

Torres đối đầu với đối thủ kình địch cũ Real Madrid vào ngày 10 tháng 3Champions League ở vòng 16 đội mặc dù vẫn dính chấn thương mắt cá, anh đã phải có tiêm một mũi giảm đau trước trận để có thể thi đấu. Anh ghi bàn đầu tiên của trận, trận này kết thúc với chiến thắng 4-0, có nghĩa Liverpool sẽ vào tứ kết với tổng tỉ số 5-0.4 ngày sau anh được ra sân trong trận tiếp Manchester United ở Old Trafford và ghi bàn quân bình tỉ số 1-1, góp công vào chiến thắng 4-1.Torres ghi bàn thứ 50 cho Liverpool vào ngày 24 tháng 5 khi tiếp Tottenham Hotspur ở ngày kết thúc mùa giải 2008-09, đó là lần ra sân thứ 84 của anh. Sau đó, anh kí một bản hợp đồng mới với Liverpool, như để củng cố niềm tin đối với anh và bao gồm cả việc sẽ gia hạn thêm một năm sau khi nó mãn hạn vào năm 2013.

Ngày 31/1/2011, Liverpool đã chính nhận lời Chelsea với giá 50 triệu bảng để đưa Torres tới Stamford Bridge. Lý do khiến anh rời Liverpool vì anh không còn cảm thấy Liverpool đủ khả năng để cạnh tranh vô địch quốc gia cũng như cấp châu lục. Sự ra đi này khiến nhiều cổ động viên Liverpool tức giận đốt áo đấu của anh và gọi anh là Judas (Kẻ phản bội Chúa).[6]

Chelsea

Ngày 31 tháng 1 năm 2011- ngày cuối cùng của kì chuyển nhượng mùa đông, Fernando Torres đã đồng ý về câu lạc bộ Chelsea F.C. với mức giá 50 triệu bảng (58,5 triệu Euro),bản hợp đồng có thời hạn 5,5 năm. Anh đã trở thành bản hợp đồng đắt giá thứ 4 trên thế giới ( sau Cristiano Ronaldo, Zlatan IbrahimovićKaká). Tại đây anh mang áo số 9 và nhận mức lương 175.000 bảng một tuần.[7]

Anh có trận đấu đầu tiên cho Chelsea trong trận đấu với chính Liverpool FC vào ngày 6 tháng 2 nhưng đã không ghi được bàn thắng và bị thay ra ở phút 66 bằng Salomon Kalou.[8]. Sau đó anh tiếp tục thi đấu mờ nhạt. Phải đến ngày 23/4/2011 Torres mới có pha bóng kỹ thuật ghi bàn vào lưới của West Ham United trong trận thắng 3-0, đây cũng là bàn thắng đầu tiên anh ghi được trong màu áo Chelsea và nó cũng cắt chuỗi mạch 13 trận đấu liên tiếp anh không ghi bàn.

Mùa giải 2011/2012

Torres thi đấu cho Chelsea năm 2012

Trước khi Giải Ngoại Hạng Anh khởi tranh, Torres đã nói với giới truyền thông rằng: "Tôi đã phục hồi toàn bộ phong độ, và tôi chưa quên cách ghi bàn". Torres đã nói như thế và anh cố gắng điều mình nói là đúng và đúng như vậy. Mọi sự nỗ lực của ảnh cũng được đền đáp bằng pha ghi bàn vào lưới Manchester United.

Ngày 20/10/2011 tại Champions League Torres đã thi đấu rất hay và đã lập được một cú đúp đầu tiên cho Chelsea trong trận thắng 5-0 trước câu lạc bộ Racing Genk của Bỉ. Dường như Torres đã trở thành một phiên bản của Andy Shevchenko, anh thi đấu giống một tiền vệ tấn công thực thụ hơn là tiền đạo dưới thời André Villas-Boas khi anh thường xuyên kiến tạo mà không ghi bàn thắng.

Quãng thời gian tịt ngòi của anh chỉ chấm dứt sau khi HLV André Villas-Boas bị sa thải. Ngày 18/3/2012, dưới sự dẫn dắt của HLV tạm quyền Roberto Di Matteo, Torres đã lập cú đúp của mình trong trận tứ kết Cúp FA gặp Leicester City với chiến thắng 5-2 cho Chelsea, giúp Chelsea vào bán kết, đồng thời anh cũng cắt chuỗi trận không ghi được bàn thắng lâu dài.

Ngày 24/4/2012, tại bán kết lượt về UEFA Champions League trong thế trận Chelsea bị Barcelona dẫn trước 2-1 và chỉ còn thi đấu với 10 người, Barca vẫn phải dồn lên tấn công (do lượt đi Chelsea đã thắng 1-0) nhưng trong 1 tình huống phản công, một mình Torres đã đối mặt thủ thành Víctor Valdés và sau đó kỹ thuật qua người để rồi ghi bàn thắng gỡ hòa 2-2 ở phút 90+2 chấm dứt mọi hi vọng vào chung kết của Barcelona qua đó giúp Chelsea tiến vào chung kết.

Ngày 29/4/2012, tiếp đà hưng phấn, Torres lần đầu tiên lập hat-trick cho Chelsea trong trận thắng 6-1 trước QPR, có thể nói 3 bàn thắng này chứng minh Torres đã hồi sinh trong màu áo Chelsea.[9][10]

Ngày 5/5/2012, anh có danh hiệu đầu tiên trong màu áo Chelsea khi The Blues đánh bại CLB cũ của anh là Liverpool FC trong trận chung kết Cúp FA với tỉ số 2-1.

Ngày 20/5/2012, anh cùng Chelsea giành chức vô địch UEFA Champions League. Trong trận đấu này, Chelsea hòa Bayern Munich với tỉ số 1-1 trong 120 phút thi đấu và sau đó giành chiến thắng trên chấm penalty với tỉ số 4-3.

Mùa giải 2012/2013

Sau khi Drogba rời Chelsea, anh được coi là tiền đạo số 1 của Chelsea.

Ngày 22/8/2012, anh là người nâng tỷ số lên thành 3-2 sau khi được đồng đội Ashley Cole kiến tạo trong trận thắng kịch tính trước CLB Reading với tỷ số 4-2.

Ngày 25/8/2012, anh là người đã kiếm được 1 quả penalty (giúp Eden Hazard ghi bàn đầu tiên trên chấm 11m trong màu áo Chelsea và anh trực tiếp ghi 1 bàn từ đường kiến tạo của Eden Hazard trong trận thắng 2-0 của Chelsea trước Newcastle. Anh cũng ghi bàn trong trận derby Luân Đôn với Arsenal. Anh ghi bàn quân binh tỷ số 1-1 trong trận gặp Norwich bằng một pha đánh đầu.

Ngày 22/11/2012, huấn luyện viên Di Matteo bị BLĐ Chelsea sa thải vì thành tích kém cỏi của đội. Sau đó Chelsea bổ nhiệm HLV Benitez làm HLV tạm quyền, với hy vọng ông sẽ giúp Torres hồi sinh.[11][12]

Anh chấm dứt chuỗi trận không bàn thắng hơn 11 giờ đồng hồ của mình với hai bàn thắng vào lưới NordsjællandChampions League vào ngày 5/12/2012, qua đó giúp Chelsea đánh bại Nordsjælland 6-1 nhưng cũng không thể vượt qua vòng bảng.

Ba ngày sau cú đúp ở Champions League, anh ghi 2 bàn và góp dấu giày trong bàn còn lại để giúp Chelsea giành chiến thắng 3-1 trên sân của Sunderland. Từ quả tạt bên cánh trái của Eden Hazard, Torres băng vào như một mũi tên, dứt điểm một chạm không cho thủ môn Mignolet kịp có phản ứng nào. Bàn thắng còn lại của tiền đạo người Tây Ban Nha được ghi trên chấm phạt đền. Tiếp đà hưng phấn, anh tiếp tục tỏa sáng ở bán kết FIFA Club World Cup giúp Chelsea thắng Monterry 3-1 vào ngày 13/12/2012. Có thể nói El Nino đã hồi sinh dưới bàn tay của Benitez.

Torres với chiếc mặt nạ

Ngày 23/12/2012, anh đóng góp 1 bàn trong chiến thắng tưng bừng 8-0 của Chelsea trước Aston Villa.

Ngày 4/4/2013, Torres xuất hiện với chiếc mặt nạ "Zorro" do bị vỡ mũi ở trận gặp Steaua Bucharest. Với chiếc mặt nạ ấy, anh thi đấu vô cùng bùng nổ và liên tục trở thành điểm sáng trong những trận đấu của Chelsea với 3 bàn thắng vào lưới Rubin Kazan (Chelsea thắng 5-4 lượt đi và lượt về Europa League), bàn thắng vào lưới Basel (Chelsea thắng 3-1),...

Ngày 15/5/2013 ,anh trực tiếp đóng góp bàn mở tỉ số trong trận chung kết UEFA Europa League khi đối đầu với Benfica. Sau đó Branislav Ivanovic đã ấn định chiến thắng 2-1 cho Chelsea giúp Chelsea trở thành CLB đầu tiên trong lịch sử vô địch cúp châu âu trong 2 mùa giải liên tiếp.[13]

Ngày 20/5/2013,anh trở thành người hùng của Chelsea khi ghi bàn ấn định tỉ số, giúp Chelsea thắng Everton 2-1, qua đó về đích ở Premier League với vị trí thứ 3 chung cuộc.

Mùa giải 2012/2013 là mùa giải tốt nhất của anh cho Chelsea. El Nino đã thi đấu đầy nỗ lực, luôn cháy hết mình mỗi khi ra sân. Từ đầu mùa, anh đã có tổng cộng 61 trận, ghi 23 bàn thắng, trở thành một trong những cầu thủ có đóng góp nhiều nhất cho Chelsea.

Anh và đồng đội Mata cũng đi vào lịch sử với tư cách là cầu thủ thứ 3 và thứ 4 giành được 4 danh hiệu danh giá bao gồm: World Cup, EURO, UEFA Champions LeagueCúp UEFA Europa League.[14]

Thi đấu quốc tế

Torres ăn mừng danh hiệu vô địch Euro 2008 cùng đội tuyển Tây Ban Nha

Vào tháng 2 năm 2001, Torres vô địch giải Algarve Tournament cùng đội tuyển U-16 Tây Ban Nha. Đội U-16 tham dự giải U16 vô địch châu Âu vào năm 2001 vào tháng 5, giải đấu mà họ cũng vô địch, với bàn thắng duy nhất ở trận chung kết ghi bởi Torres, và anh cũng kết thúc giải đấu với ngôi vị vua phá lưới, và cũng là cầu thủ xuât sắc nhất giải. Vào tháng 11 năm 2001, Torres góp mặt cùng Tây Ban Nha ở giải vô địch châu Âu lứa tuổi U-17, nhưng đội đã không thể vượt qua vòng bảng. Vào tháng 7 năm 2002, anh vô địch giải vô địch châu Âu lứa tuổi U-19.Anh kết thúc giải với ngôi vị vua phá lưới, và là cầu thủ xuât sắc nhất giải, và một lần nữa lại ghi bàn duy nhất ở trận chung kết.

Torres tập luyện cho Euro 2012

Torres có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển Tây Ban NHa vào ngày 6 tháng 9 năm 2003 trong trận tiếp đội tuyển Bồ Đào Nha.Bàn thắng đầu tiên của anh cho đội tuyển đến trong trận tiếp đội tuyển Ý vào ngày 28 tháng 4 năm 2004.Anh được chọn cho đội tuyển Tây Ban Nha ở Euro 2004.Sau khi vào sân muộn màng ở 2 trận đầu tiên ở vòng bảng của Tây Ban Nha, anh ra sân trong trận đấu quyết định với Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha thua 1-0, và đá cho đến hết hiệp 2, có một lần đưa bóng bật cột dọc.

Anh ghi 7 bàn trong 11 lần ra sân ở vòng loại World Cup 2006, là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất cho Tây Ban Nha ở vòng loại, bao gồm cả cú hattrick đầu tiên của anh ở đội tuyển trong trận tiếp San Marino. Trong trận đấu đầu tiên ở World Cup, Torres ghi bàn thắng cuối cùng trong trận thắng 4-0 trước Ukraine với một cú volley. Ở lưột đấu thứ 2, Torres lập cú đúp trước Tunisia, bàn đầu tiên ở phút 76 đưa Tây Ban Nha vượt lên dẫn trước, và sau đó là từ một cú đá phạt đền ở phút 90.Với 3 bàn, anh kết thúc giải đấu với việc là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất cho Tây Ban Nha cùng với David Villa.

Anh được gọi cho lên đội tuyển Tây Ban NhaEuro 2008, khi anh tạo cơ hội cho Villa ghi bàn đầu tiên cho Tây Ban Nha ở giải đấu khi tiếp đội tuyển Nga.Torres đã cho thấy sự bực mình khi không bắt tay huấn luyện viên của Tây Ban Nha,Luis Aragones, sau khi bị thay ra. Anh sau đó giải thích cho việc tức giận với huấn luyện viên, nói rằng anh bực mình với chính bản thân. Anh ghi bàn đầu tiên ở giải trong trận đấu tiếp theo gặp đội tuyển Thụy Điển.Torres ghi bàn thắng quyết định và cũng được bầu là cầu thủ xuât sắc nhất trận trong trận thắng đội tuyển Đức với tỉ số 1-0 ở trận chung kết. Anh nói, "đó là một giấc mơ có thực. Đây là danh hiệu đầu tiên của tôi và tôi hi vọng còn nhiều hơn nữa. Vô địch Euro, nó như vô địch World Cup. Chúng tôi đã xem trận chung kết qua vô tuyến, nhưng ngày hôm nay chúng tôi ở đây và chúng tôi vô địch. Nhiệm vụ của tôi là ghi bàn. Tôi muốn vô địch nhiều danh hiệu nữa và trở thành cầu thủ xuất sắc nhất châu ÂU và thế giới." Anh về sau được bầu cùng với đối tác Villa trong đội hình hay nhất giải đấu.

"Torres là một tài năng độc nhất vô nhị.""Tôi cảm thấy rất tin tưởng và hoàn toàn thoải mái khi được thi đấu bên cạnh cậu ấy. Torres có khả năng làm được những điều hết sức tuyệt vời và phải thú nhận rằng tôi cùng với cậu ấy là một bộ đôi hoàn hảo."

David Villa,nhận xét về Fernando Torres[15]

Torres đánh dấu trận đấu thứ 60 cho Tây Ban Nha ở vòng loại World Cup 2010 sau chiến thắng trước đội tuyển Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 28 tháng 3 năm 2009, trở thành cầu thủ trẻ nhất đạt được kỉ lục này. Trong một mùa giải bị dính nhiều chấn thương, anh đã bỏ lỡ nhiều trận đấu ở vòng loại, nhưng vẫn ghi bàn tron trận tiếp đội tuyển Chile sau khi vào sân thay Villa ở hiệp hai. Anh được chọn cho đội tuyển Tây Ban Nha ở FIFA Confederations Cup 2009 vào tháng 6.Anh ghi một cú hattrick trong 17 phút ở trận đầu tiên tiếp đội tuyển New Zealand vào ngày 14 tháng 6, đồng thời cũng là cú hattrick nhanh nhất của một cầu thủ cho đội tuyển Tây Ban Nha. Anh đá trong trận thắng 2-0 trước đội tuyển Mĩ, cũng như ở trận tranh giải 3, khi Tây Ban Nha thắng 3-2 sau hiệp phụ.

Sau đó là một khoảng thời gian khá lâu kể từ khi anh bị chấn thương, từ World cup 2010 đến nay anh chỉ ghi 6 bàn cho đội tuyển. 5 cho World cup và 1 trong trận đấu giao hữu với tuyển Mĩ bằng một pha bóng nhoài người ghi bàn qua đầu Tim Howard.

Torres (trái) cùng đồng đội MataRamos ăn mừng chức vô địch Euro 2012

Anh được triệu tập danh sách 23 cầu thủ Đội tuyển Tây Ban Nha tham dự Euro 2012. Ngày 14/6/2012 anh lập cú đúp trong trận thắng 4-0 của Tây Ban Nha trước đội tuyển CH Ireland. Ngày 1/7/2012, anh ghi được 1 bàn thắng trong trận chung kết Euro, kết quả là Đội tuyển Tây Ban Nha giành chiến thắng 4-0 trước Đội tuyển Ý[16], qua đó giành chức vô địch, anh cũng được nhận danh hiệu là vua phá lưới của Euro 2012.[17]

Sau Euro 2012,Torres sa sút phong độ và không được triệu tập vào Đội tuyển Tây Ban Nha trong một thời gian dài.

Ngày 28/05/2013,Anh được điền tên vào danh sách 26 cầu thủ tham dự Confederations Cup 2013 vì có được phong độ tốt ở Chelsea.[18]

Ngay lập tức anh thể hiện cái duyên của mình ở ĐTQG,Torres ghi tới 4 bàn thắng vào lưới Tahiti giúp Tây Ban Nha đại thắng Tahiti 10-0.[19]Sau đó 3 ngày,anh ghi 1 bàn trong trận Tây Ban Nha thắng Nigeria 3-0.Dẫn đầu danh sách ghi bàn của Confederations Cup 2013 với 5 bàn thắng.

Tuy Tây Ban Nha không thể dành chức vô địch Confederations Cup 2013 khi để thua Brazil 3-0 ở chung kết,nhưng Torres vẫn có được Chiếc Giày Vàng Confed Cup.

Đời sống riêng tư

Torres và Olalla

Torres cưới Olalla Domínguez Liste vào ngày 27 tháng 5 năm 2009 ở El Escorial, Madrid, nơi họ đã tạo dựng mối quan hệ từ năm 2001. Tháng 2 năm 2009, vợ anh đã mang bầu một đứa bé, mà sau đó được xác nhận là bé gái. Nora Torres Domínguez ra đời ngày 8 tháng 7 năm 2009 tại bệnh viện La Rosaleda Compostelan, ở Santiago de Compostella.

Vào năm 2009, có thông tin cho rằng Torres có tài sản cá nhân vào khoảng 14 triệu bảng Anh. Anh xuất hiện trong video "Ya Nada Volverá A Ser Como Antes" bởi ban nhạc rock Tây Ban Nha El Canto del Loco, ca sĩ của ban nhạc, Dani Martin, có một mối quan hệ thân thiết với cầu thủ này. Anh có xuất hiện trong bộ phim hài Torrente 3 vào năm 2005.[20] Torres còn có biệt danh "mụn" vì mặt anh khá nhiều mụn.

Ngày 14/08/2009, anh cho ra đời cuốn tự truyện Torres: Elnino: My story (Torres: Elnino : Câu truyện của tôi).Trong cuốn sách này,Torres đã giải bày với độc giả những tâm sự,cảm nhận của anh.

Torres rất say mê Video game, đặc biệt là các trò chơi dành cho máy PlayStation 3. Anh tiết lộ rằng ở trong ngôi biệt thự của mình, anh đặt 3 máy PS3 ở 3 tầng để có thể chơi game thoải mái thỏa thích khi phải rời xa sân cỏ vì chấn thương. Những Video game mà anh ưa thích là PES và GTA.

Anh cũng xăm mình như bao cầu thủ khác:

  • Hình xăm thứ nhất ở ống chân là ba chữ số La Mã, VII VII MMI (7 7 2001). Người ta cho rằng đây là ngày đặc biệt của anh.Chưa ai biết rõ ý nghĩa cụ thể của ba con số này.
  • Hình xăm thứ hai ở bên tay phải là số 9,số áo yêu thích của anh.Anh mặc số 9 ở ĐT Tây Ban Nha,ở Atlético de Madrid,Liverpool và giờ là Chelsea
  • Hình xăm thứ 3 là một cụm từ viết bằng hệ thống ký tự Tengwar,trong phim Chúa tể của những chiếc nhẫn[21]

Thống kê sự nghiệp

Câu lạc bộ

Số liệu thống kê tính đến ngày 12 tháng 1 năm 2011.

Câu lạc bộ Mùa giải Giải[A] Cúp Cúp liên đoàn châu Âu Tổng cộng
Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Atlético Madrid 2000–01[22][23] 4 1 2 0 –– 0 0 6 1
2001–02[24][25] 36 6 1 1 –– 0 0 37 7
2002–03[26][27] 29 13 2 1 –– 3 0 31 14
2003–04[28][29] 35 19 5 2 –– 3 0 40 21
2004–05[30][31][32] 38 16 6 2 –– 5 2 49 20
2005–06[33][34] 36 13 4 0 –– 0 0 40 13
2006–07[35][36] 36 14 4 1 –– 0 0 40 15
Tổng cộng 214 82 24 7 –– 11 2 249 91
Liverpool 2007–08[37] 33 24 1 0 1 3 11 6 46 33
2008–09[38] 24 14 3 1 2 0 9 2 38 17
2009–10[39] 22 18 2 0 0 0 8 4 32 22
2010–11[40] 22 9 1 0 0 0 2 0 25 9
Tổng cộng 102 65 7 1 3 3 30 12 142 81
Chelsea 2010–11[41] 14 1 0 0 0 0 4 0 17 1
2011–12[42] 32 6 6 2 1 0 10 3 49 11
Tổng cộng 46 7 6 2 1 0 14 3 67 12
Tổng sự nghiệp 131 34 362 154 37 10 4 3 49 17 516 206

Đội tuyển quốc gia

Tính đến ngày 3 tháng 9 năm 2010.

Đội tuyển quốc gia Mùa giải Giao hữu Giải đấu Tổng cộng
Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Tây Ban Nha 2003–04[43] 5 1 5 0 10 1
2004–05[44] 4 1 6 1 10 2
2005–06[44] 6 1 9 9 15 10
2006–07[45] 2 0 6 1 8 1
2007–08[45] 5 0 7 3 12 3
2008–09[46] 2 2 10 3 12 5
2009–10[46] 3 2 10 0 13 2
2010–11[46] 0 0 1 2 1 2
Tổng sự nghiệp 27 7 54 19 81 26

Bàn thắng quốc tế

Tính đến ngày 21 tháng 1 năm 2011.[43][44][45][46][47][48][48][49][49][50][51][52][53]

Danh hiệu

Atlético Madrid

Chelsea

Đội tuyển quốc gia

Cá Nhân

Ghi chú

A. ^ Cột "Giải" được cấu thành bởi số lần ra sân và bàn thắng (kể cả những lần vào thay người) ở La Liga, Segunda Divisióngiải Ngoại hạng Anh.

Tham khảo

  1. ^ “Statistics” (PDF). Premier League. Truy cập 16/06/2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  2. ^ “9. Fernando Torres”. Liverpool F.C. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2009. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  3. ^ “Infancia” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 20/06/2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  4. ^ Liverpool 1-1 Atletico Madrid SGGP
  5. ^ Torres đoạt quả bóng đồng Công An Nhân Dân Online
  6. ^ CĐV Liverpool đốt áo Torres Bongda +
  7. ^ Torres tới Chelsea Người Lao Động
  8. ^ Hải Đăng (7 tháng 2 năm 2011). “Torres mờ nhạt, Liverpool hạ gục Chelsea ngay tại Stamford Bridge”. Dân Trí. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2011.
  9. ^ Chelsea 6-1 QPR Bongda +
  10. ^ Torres hồi sinh Bongda +
  11. ^ Chelsea bổ nhiệm Rafa Benitez Thể Thao Thanh Niên
  12. ^ Benitez giúp Torres hồi sinh Zing News
  13. ^ Chelsea vô địch Europa League Dân Trí
  14. ^ Torres,Mata đi vào lịch sử Bongda +
  15. ^ Villa ca ngợi Torres
  16. ^ Tây Ban Nha 4-0 Ý Thể Thao VnExpress
  17. ^ Torres trở thành vua phá lưới Euro 2012 Đài tiếng nói Việt Nam
  18. ^ Torres được gọi lại vào ĐT Tây Ban Nha Tin Thể Thao
  19. ^ Tây Ban Nha 10-0 Tahiti Dân Trí
  20. ^ Torrente 3 / Fernando Torres
  21. ^ Cuộc đời F.Torres Yume
  22. ^ “Temporada 2000/01 - Liga 2ª División (primer equipo)” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  23. ^ “Temporada 2000/01 - Copa Del Rey” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  24. ^ “Temporada 2001/02 - Liga 2ªDivisión” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  25. ^ “Temporada 2001/02 - Copa del Rey” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  26. ^ “Temporada 2002/03 - Liga 1ª División” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  27. ^ “Temporada 2002/03 - Copa del Rey” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  28. ^ “Temporada 2003/04 - Liga 1ª División” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  29. ^ “Temporada 2003/04 - Copa del Rey” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  30. ^ “Temporada 2004/05 - Liga 1ª División” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  31. ^ “Temporada 2004/05 - Copa del Rey” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  32. ^ “Temporada 2004/05 - Intertoto” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  33. ^ “Temporada 2005/06 - Liga 1ª División” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  34. ^ “Temporada 2005/06 - Copa del Rey” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  35. ^ “Temporada 2006/07 - Liga 1ª División” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  36. ^ “Temporada 2006/07 - Copa del Rey” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  37. ^ “Liverpool 2007/2008 player appearances”. Soccerbase. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  38. ^ “Liverpool 2008/2009 player appearances”. Soccerbase. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  39. ^ “Liverpool 2009/2010 player appearances”. Soccerbase. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  40. ^ “Liverpool 2010/2011 player appearances”. Soccerbase. Truy cập 16/8/2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  41. ^ http://www.soccerbase.com/players/player.sd?player_id=31990&season_id=140. Đã bỏ qua tham số không rõ |fechaacceso= (gợi ý |access-date=) (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |título= (gợi ý |title=) (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |editorial= (trợ giúp); |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  42. ^ “Chelsea 2011/2012 player appearances”. Soccerbase. Truy cập 14/8/2012. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  43. ^ a b “Temporada 2002/04 - Selección Española” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  44. ^ a b c “Temporada 2004/06 - Selección Española” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  45. ^ a b c “Temporada 2006/08 - Selección Española” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  46. ^ a b c d “Temporada 2008/10 - Selección española” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  47. ^ “Spain 2 – Yugoslavia 1”. Soccer Spain. Truy cập 21/1/2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  48. ^ a b “N. Ireland 1 – Spain 4”. Soccer Spain. Truy cập 21/1/2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  49. ^ a b “Spain 4 – Macedonia 0”. Soccer Spain. Truy cập 21/1/2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  50. ^ “Norway 0 – Spain 3”. Soccer Spain. Truy cập 21/1/2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  51. ^ “Slovakia 1 – Spain 3”. Soccer Spain. Truy cập 21/1/2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  52. ^ “Spain 1 – Germany 0”. Soccer Spain. Truy cập 21/1/2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  53. ^ “Oman – Spain”. FIFA. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2011.
  54. ^ a b c d e “Palmarés” (bằng tiếng Tiếng Tây Ban Nha). Fernando Torres. Truy cập 17/11/2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)

Liên kết ngoài

Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt