Bước tới nội dung

Made in Abyss

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do S1897629 (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 14:41, ngày 4 tháng 9 năm 2022 (→‎Cốt truyện). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

Made in Abyss
Bìa tập 1 của bộ truyện, gồm nhân vật Reg (trên) và Riko (dưới)
メイドインアビス
(Meido in Abisu)
Thể loạiPhiêu lưu, kỳ ảo u tối, khoa học viễn tưởng[1][2]
Manga
Tác giảAkihito Tsukushi
Nhà xuất bảnNhật Bản Takeshobo
Nhà xuất bản tiếng ViệtViệt Nam NXB Hồng Đức, IPM
Nhà xuất bản khác
Đài Loan Chingwin Publishing Group
Argentina Tây Ban Nha Editorial Ivrea
México Editorial Panini
Brasil NewPOP Editorial
Nga Reanimedia
Đối tượngSeinen
Tạp chíNhật Bản Web Comic Gamma
Đăng tải2012 – nay
Số tập11 (danh sách tập)
Anime truyền hình
Đạo diễnKojima Masayuki
Kịch bảnKurata Hideyuki
Âm nhạcKevin Penkin
Hãng phimKinema Citrus
Cấp phépNhật Bản Media Factory
Trung Quốc Đài Loan JY Animation
Tây Ban Nha Selecta Visión
Kênh gốcAT-X, Tokyo MX, TV Aichi, Sun TV, KBS, TVQ, STS, BS11
Phát sóng 7 tháng 7 năm 2017 29 tháng 9 năm 2017
Số tập13 (danh sách tập)
Loạt phim anime
  • Made in Abyss: Tabidachi no Yoake (メイドインアビス 旅立ちの夜明け?)
  • Made in Abyss: Hōrō Suru Tasogare (メイドインアビス 放浪する黄昏?)
Đạo diễnKojima Masayuki
Kịch bảnKurata Hideyuki
Âm nhạcKevin Penkin
Hãng phimKinema Citrus
Cấp phép
Sentai Filmworks
Phát sóng4 tháng 1 năm 2019 (Phần 1)
18 tháng 1 năm 2019 (Phần 2)
Thời lượng / tậpPhần 1 (119 phút)
Phần 2 (108 phút)
Phim anime
Made in Abyss: Fukaki Tamashī no Reimei (メイドインアビス 深き魂の黎明?)
Đạo diễnKojima Masayuki
Kịch bảnKurata Hideyuki
Âm nhạcKevin Penkin
Hãng phimKinema Citrus
Công chiếu17 tháng 1 năm 2020
Thời lượng105 phút
Anime truyền hình
Made in Abyss: Retsujitsu no Ōgonkyō
Đạo diễnKojima Masayuki
Kịch bảnKurata Hideyuki
Âm nhạcKevin Penkin
Hãng phimKinema Citrus
Cấp phépSentai Filmworks (kĩ thuật số và tại gia)
Kênh gốcAT-X, Tokyo MX, BS11, Sun TV, KBS Kyoto, TV Aichi, Saga TV
Phát sóng 6 tháng 7 năm 2022 – đang lên lịch
Số tập12
Trò chơi điện tử
Made in Abyss: Binary Star Falling into Darkness
Phát triểnSpike Chunsoft
Phát hànhSpike Chunsoft
Thể loạiHành động nhập vai
Hệ máyMicrosoft Windows, Nintendo Switch, PlayStation 4
Ngày phát hành2 tháng 9 năm 2022
 Cổng thông tin Anime và manga

Made in Abyss (Nhật: メイドインアビス Hepburn: Meido in Abisu?, tạm dịch: Đi vào Abyss) là một bộ manga của Akihito Tsukushi, xuất bản trực tuyến trên Web Comic Gamma của Takeshobo từ năm 2012 và đến nay có 10 tập tankōbon được phát hành. Bộ truyện được phát hành tại Việt Nam vào năm 2021. Nội dung kể về một cô bé mồ côi tên Riko, cùng cậu bạn người máy Reg phiêu lưu vào miệng hố "Abyss" để đi tìm người mẹ thất lạc của Riko. Bản anime truyền hình sản xuất bởi Kinema Citrus đã phát sóng mùa đầu tiên từ 7 tháng 7 năm đến 29 tháng 9 năm 2017, với mùa thứ hai phát sóng từ tháng 7 năm 2022.

Cốt truyện

Câu chuyện xoay quanh về một cô gái mồ côi tên Riko sống ở trại trẻ mồ côi Belchero, nằm tại thị trấn Orth trên một hòn đảo giữa vùng biển Beoluska. Thị trấn Orth bao vây một cái hố khổng lồ đi sâu vào lòng đất, thường được gọi với cái tên Abyss (Vực thẳm). Abyss là nơi tụ tập của những loài sinh vật kì lạ và cũng là nơi chứa những món di vật quý hiếm từ nền văn minh cổ xưa mà con người chưa biết, mà sau đó nó đã trở thành nơi săn tìm phổ biến của các nhà thám hiểm (Cave Raiders) bất chấp khó khăn, gian nan và nguy hiểm, để đi sâu vào hố và tìm những di vật họ thấy được. Trở về từ vực thẳm gây nhiều trở ngại hơn do "Lời nguyền Abyss", gây chóng mặt, nôn mữa, đau toàn thân thậm chí là tử vong cho người thám hiểm khi càng xuống sâu hơn. Một số nhà thám hiểm huyền thoại đã may mắn trở về và kể lại hành trình của họ, một trong số đó là Chúa tể hủy diệt - Lyza, được biết với danh hiệu Còi trắng và là mẹ ruột của Riko.

Khát vọng sống của Riko là theo bước chân mẹ cô trở thành một Còi trắng. Ngày nọ, cô tìm thấy và kết bạn với một cậu bé người máy ở Abyss, cậu được đặt tên là Reg. Riko cùng những người bạn của cô giúp Reg có thể vào được Belchero. Ngày kia, Riko đã đọc được một thông điệp của Lyka rằng mẹ cô đang chờ cô dưới đáy Abyss. Cô quyết định bắt đầu hành trình tìm mẹ cùng với Reg, chia tay bạn bè cũng như cả thị trấn.

Nhân vật

Nhân vật chính

Riko (リコ?)
Lồng tiếng: Tomita Miyu
Một cô bé 12 tuổi năng động và tinh nghịch, muốn trở thành một nhà thám hiểm như mẹ người mẹ quá cố của mình, Lyza, đã biến mất ở Abyss từ mười năm trước (tính thời điểm hiện tại của câu chuyện). Riko hiện là một nhà thám hiểm đang được huấn luyện tại trại trẻ mồ côi Belchero. Mặc dù chính sách của trại là đưa nộp những di vật tìm được để trả cho chi phí vận hành, nhưng cô đã bí mật sở hữu riêng mình một di vật tìm được, La Bàn Tinh Tú, mà cô hy vọng sẽ sử dụng nó trong hành trình của mình. Lyza đã sinh cô ra trong một nhiệm vụ dưới Abyss. Lyza và Ozen đưa Riko lên bằng một di vật được gọi là "Lồng giải nguyền". Tuy nhiên, do Lời nguyền tác động, Riko phải đeo kính nếu không cô sẽ bị đau đầu khi nhìn bình thường.
Reg (レグ Regu?)
Lồng tiếng: Ise Mariya
Một robot nữa người bị mất trí nhớ với hình dạng một cậu bé. Reg không hề nhớ mình là ai, cậu được Riko đặt tên theo một chú chó mà cô từng nuôi.[3] Cậu có thể tiêu thụ thực phẩm hữu cơ mặc dù là máy móc. Vũ khí của Reg là tay có khả năng kéo dài, và bắn ra một chùm năng lượng được gọi là Pháo Hỏa Thiêu, nó đủ mạnh để hủy diệt gần như mọi vật thể. Tuy nhiên, nếu sử dụng nó, Reg sẽ bị hôn mê suốt 2 tiếng và không cách nào làm cậu tỉnh suốt khoảng thời gian đó.

Nanachi (ナナチ)

Lồng tiếng bởi: Shiori Izawa

Nanachi là một Hollow (成 れ 果 て, Narehate - để ám chỉ sinh vật đã mất nhân tính vì xuống tầng sáu của Abyss) với đặc điểm và tính năng khá giống thỏ. Khi còn là một con người, Nanachi sống trong khu ổ chuột, nhặt thức ăn, ăn từ thùng rác và học cách đọc các ký tự cổ. Sau khi được Bondrewd tuyển dụng với ngụ ý rằng họ sẽ được đào tạo thành Cave Raiders (những nhà thám hiểm Abyss), Nanachi kết bạn với một cô gái trẻ tên là Mitty lúc họ xuống Abyss, và họ cùng nhau được đưa xuống tầng thứ sáu trong một trong những thí nghiệm của Bondrewd. Khi họ bị kẹt trong đó, nhân tính của Nanachi đã bị mất đi một phần, trong khi Mitty mất đi toàn bộ nhân tính và trở thành một loại xác thịt bất tử và dị dạng. Nanachi cùng Mitty trốn thoát khỏi phòng thí nghiệm của Bondrewd để giải thoát cho cô khỏi nỗi đau của những thí nghiệm tàn ác của ông ta, chăm sóc cho cô cho đến khi cô qua đời, và sau đó đồng ý tham gia cùng Riko và Reg trong chuyến du hành đến các tầng thấp hơn. Tác giả cố tình không tiết lộ giới tính và để người đọc tự hiểu.


Faputa (ファプタ)

Lồng tiếng bởi: Misaki Kuno

Faputa là một sinh vật được mệnh danh là "Công chúa của Narehate" sống ở tầng thứ sáu. Cô là đứa con cuối cùng của Irumyuui và thề sẽ trả thù ngôi làng vì anh chị em cùng mẹ đã chết trước đó của cô. Cô đã gặp và trở thành bạn thân của Reg trước khi cậu mất ký ức. Khi cô gặp lại Reg, Faputa tức giận với cậu vì đã quên cô và ghen tị với tình bạn của cậu với Riko và Nanachi nhưng sau đó kết bạn với cả hai, tham gia vào nhóm trong hành trình đi xuống đáy của Abyss.

Trại trẻ mồ côi Belchero

Quản lý (院長, Inchō)

Lồng tiếng bởi: Yōko Sōmi

Quản lý và chủ trại trẻ mồ côi Belchero ở thành phố Orth, nơi chuyên đào tạo trẻ mồ côi thành những người khám phá và tìm những di tích ở dưới tầng một của Abyss. Bà ấy khá nghiêm khắc, và có một số hình phạt thú vị dành cho những đứa trẻ không tuân theo nội quy của trại trẻ mồ côi.

Jiruo (ジルオ) / Leader (リーダー, Rīdā)

Lồng tiếng bởi: Taishi Murata

Một trợ lý hướng dẫn trẻ tuổi "Moon Whistle" (Trợ giảng) tại Trại trẻ mồ côi Belchero, người từng là học trò của Lyza, chăm sóc cho Riko sau khi cô được sinh ra. Trong khi nghiêm khắc, anh cũng cực kỳ nhạy bén và nhanh nhạy, và đằng sau vẻ ngoài có vẻ bất cần đời của mình, anh là một tâm hồn nhân hậu và lương thiện. Anh thường được các học trò gọi là "Leader". Anh hiện đang ở độ tuổi 20.

Nat (ナ ッ ト, Natto )
Lồng tiếng bởi: Mutsumi Tamura
Nat là một trong những người bạn của Riko tại Trại mồ côi Belchero. Cậu là người kiên quyết nhất chống lại việc cô ấy thám hiểm vào Abyss.
Shiggy (シ ギ ー, Shigī )
Lồng tiếng bởi: Manami Numakura  
Shiggy là một người bạn khác của Riko tại Trại mồ côi Belchero. Cậu ấy đã giúp Riko che giấu thân phận thật của Reg với những người lớn và giống như Nat, biết về kế hoạch của Riko để tìm kiếm mẹ cô ở Abyss.
Kiyui (キ ユ イ)
Lồng tiếng bởi: Manami Hanawa  
Đứa trẻ mồ côi bé nhất tại Trại mồ côi Belchero, và là một trong những người bạn của Riko. Kiyui vẫn chưa đạt đến trạng thái Red Whistle (Tập sự), vì vậy bé ấy đeo Bell và tham gia các công việc hàng ngày ở trại trẻ mồ côi trong khi Red Whistles đang trong thời gian huấn luyện.

Cave Raiders (Những nhà thám hiểm)

Habolg (ハボルグ, Haborugu)

Lồng tiếng bởi: Tetsu Inada

Một Black Whistle (Chuyên gia) thân thiện, thân thuộc, người đã đưa cái Còi trắng (White Whistle) của Lyza và những ghi chú thông tin về Abyss cuối cùng của cô lên bề mặt, nó đã hỗ trợ hai nhân vật chính ngay sau khi họ đi xuống thám hiểm. Ông thường được Riko và bạn bè của cô đến thăm khi không đi thám hiểm, và được Riko gọi là "Chú".

Ozen (オ ー ゼ ン, Ōzen)
Lồng tiếng bởi: Sayaka Ohara
Một White Whistle (Còi Trắng) được gọi là "Ozen kẻ Bất Động", phụ trách Seeker Camp (Trại Người tìm kiếm) ở tầng hai của Abyss. Bà từng là người thầy của Lyza và đã giúp cô đưa Riko trở lại bề mặt đất sau khi Riko được sinh ra. Nó được tiết lộ rằng Ozen quan tâm đến Lyza rất sâu sắc, mặc dù tính cách cứng rắn của bà, và Ozen hứa với Lyza sẽ gửi Riko đến với cô nếu tình huống xảy ra. Ozen ghép một thiết bị vào cơ thể bà, giúp bà có sức sống và sức mạnh phi thường. Habolg cũng tuyên bố rằng Ozen đã đi xuống sâu trong Abyss ít nhất 50 năm. Cho dù đã quá tuổi nhưng bà vẫn sắc sảo và khá vô tâm khi luôn đưa ra những lời khinh miệt của bà cho ai đó.
Marulk (マ ル ル ク, Maruruku)
Lồng tiếng bởi: Aki Toyosaki  
Một Blue Whistle (Còi Xanh) là học trò và trợ lý của Ozen, kết bạn với Riko và Reg trong thời gian họ ở Trại Người tìm kiếm. Marulk trông giống như một cô gái và mặc một chiếc váy người hầu nhưng sử dụng đại từ nam tính boku. Có ngụ ý rằng Ozen buộc Marulk phải ăn mặc theo cách này.
Lyza (ラ イ ザ, Raiza)
Lồng tiếng bởi: Maaya Sakamoto  
Mẹ của Riko. Cô là học trò cũ của Ozen, và là một trong số ít Cave Raiders đạt được cấp bậc White Whistle, với danh hiệu "Lyza kẻ Hủy Diệt". Người ta nói rằng cô không chỉ chinh phục nhiều hiểm nguy của Abyss, mà còn chiến đấu với các nhóm đột kích của các quốc gia nước khác. Theo lời của Jiruo, từng là đệ tử của Lyza, anh đã nói với Riko rằng cô là một kẻ nhậu nhẹt và thích đánh nhau, trái ngược với tạo hình xinh đẹp của cô.
Bondrewd (ボ ン ド ル ド, Bondorudo)
Lồng tiếng bởi: Toshiyuki Morikawa  (tiếng Nhật); David Harbold  (tiếng Anh)
"Bondrewd the Novel" phụ trách Ido Front, một trạm nghiên cứu nằm ở dưới cùng của tầng năm, canh giữ cửa ngõ vào tầng thứ sáu của Abyss. Ông ta là người chịu trách nhiệm cho một số thí nghiệm phi đạo đức trên trẻ em, bao gồm cả thí nghiệm biến Nanachi và Mitty thành Hollow.

Ido Front (Trong movie thứ 3)

Prushka (プルシュカ, Purushuka)

Lồng tiếng bởi: Inori Minase  
Con gái nuôi của Bondrewd, người đã dành toàn bộ cuộc đời mình dưới tầng thứ năm. Yêu Bondrewd và gọi ông ấy là "Papa". Prushka kết bạn với Riko và sau cùng trở thành hình dạng Còi trắng và được Riko mang theo bên mình.

Meinya (メ イ ニ ャ)

Lồng tiếng bởi: Natsuko Hara
Meinya là một con vật cưng, là người bạn đồng hành trung thành với Prushka và sau cùng là Riko, một sinh vật cỡ thỏ được gọi là Meinastilim, được Bondrewd tặng cho Prushka như một món quà khi cô còn nhỏ vì bị chấn thương nặng. Việc đánh hơi bộ lông của Meinya dường như làm khả năng miễn nhiễm tạm thời đối với lời nguyền tầng thứ năm giảm đi bằng cách cho người đánh hơi thấy và do đó đi theo con đường của Meinya.

Tam Đại Hiền Nhân Gaja

Wazukyan (ワ ズ キ ャ ン)
Lồng tiếng bởi: Hiroaki Hirata  
Thuyền trưởng của hạm đội Ganja, người đã tiên tri sự xuất hiện của Vueloeluko.
Belaf (ベ ラ フ, Berafu)
Lồng tiếng bởi: Mitsuki Saiga
Đồng hành cùng Wazukyan và Vueloeluko ​​trong chuyến hành trình tìm kiếm Abyss bằng cách sử dụng Star Compass.
Vueloeluko ​​(ヴ エ ロ エ ル コ, Vueroeruko)
Lồng tiếng bởi: Yuka Terasaki  
Phản đối việc thành lập Làng Ilblu sau khi phát hiện ra Thành phố Vàng, bị trục xuất và giam cầm trong một hố bùn tối tăm, nhớp nháp bên dưới ngôi làng. Cô thích được gọi là Vueko (ヴ エ コ) do cái tên dài của cô. Cô rất thân với Irumyuui và khá đau buồn khi thấy con của Irumyuui chết.

Các nhân vật khác

Mitty (ミ ー テ ィ, Mīti)
Lồng tiếng bởi: Eri Kitamura
Một sinh vật vô định hình kỳ lạ sống cùng Nanachi trên tầng thứ tư của Abyss. Trong quá khứ, Mitty là một cô gái bình thường với mái tóc đỏ và nước da sáng, được Bondrewd chiêu mộ cùng với những đứa trẻ mồ côi khác từ một khu vực vô danh để xuống Abyss. Kết quả là được Bondrewd gửi đến tầng thứ sáu, cô trở thành Hollow, khiến cô mất tính cách và ngoại hình của cô hơi giống một con mèo bị dị tật nghiêm trọng với miệng lớn, còn một mắt và tính cách giống như một chú chó thân thiện. Lời nguyền cũng khiến cô trở nên "bất tử" và Bondrewd đã thực hiện những thí nghiệm khủng khiếp đối với cô để kiểm tra khả năng hồi phục của cô sau những vết thương có thể gây tử vong. Mitty cũng có khả năng cung cấp thuốc giải độc cho những sinh vật độc hại của Abyss, mà Nanachi đã phát hiện ra khi cố gắng kết thúc sự đau khổ của cô.

Truyền thông

Manga

Tsukushi bắt đầu xuất bản bộ truyện trên Web Comic Gamma của Takeshobo từ năm 2012[4] và có tổng 11 tập tankōbon tính đến hiện nay. Seven Seas Entertainment thông báo tại Anime Expo 2017 rằng họ đã cấp phép cho manga bản tiếng Anh.[5] Bộ truyện được phát hành tại Việt Nam vào năm 2021.[6]

Một bản manga tuyển tập có tên Meido in Abisu Kōshiki Ansorojī: Doshigataki Sagu-tachi (メイドインアビス公式アンソロジー 度し難き探窟家たち Meido in Abisu Kōshiki Ansorojī: Doshigataki Sagu-tachi?), đã phát hành vào 29 tháng 7 năm 2017 với ISBN là ISBN 978-4-80-196012-1.[7]

Danh sách tập truyện

#Phát hành Tiếng NhậtPhát hành Tiếng Việt
Ngày phát hànhISBNNgày phát hànhISBN
1 31 tháng 7 năm 2013[8]978-4-81-248380-022 tháng 7, 2021[9]978-604-328-770-7
2 30 tháng 6 năm 2014[10]978-4-81-248716-722 tháng 8, 2021[11]978-604-328-771-4
3 20 tháng 6 năm 2015[12]978-4-801952-74-422 tháng 9, 2021[13]978-604-328-772-1
4 30 tháng 4 năm 2016[14]978-4-801955-16-522 tháng 10, 2021[15]978-604-328-773-8
5 26 tháng 12 năm 2016[16]978-4-801957-20-622 tháng 11, 2021[17]978-604-328-774-5
6 29 tháng 17 năm 2017[18]978-4-801960-11-422 tháng 12, 2021[19]978-604-328-775-2
7 27 tháng 7 năm 2018[20]978-4-801963-39-922 tháng 1, 2022[21]978-604-351-157-4
8 30 tháng 5 năm 2019[22]978-4-8019-6627-722 tháng 2, 2022[23]978-604-351-158-1
9 27 tháng 7 năm 2020[24]978-4-8019-7029-822 tháng 3, 2022[25]978-604-351-431-5
10 29 tháng 7 năm 2021[26]978-4-8019-7390-922 tháng 4, 2022[27]978-604-361-314-8
11 29 tháng 7 năm 2022[28]978-4-8019-7802-7

Anime

Bản chuyển thể anime truyền hình được thông báo vào năm 2016.[4] Mười ba tập phim đã được phát sóng từ ngày 7 tháng 7 đến 29 tháng 9 năm 2017 trên các kênh AT-X, Tokyo MX, TV Aichi, Sun TV, KBS Kyoto, TVQ, Saga TV, và BS11,[29][30][31] với tập cuối (13) là tập đặc biệt dài 1 tiếng.[31] Kojima Masayuki đạo diễn bộ anime và kịch bản Kurata Hideyuki do chắp bút, với phần sản xuất hoạt họa thực hiện bởi Kinema Citrus và Kise Kazuchika thiết kế nhân vật.[4] Nghệ sĩ âm nhạc người Úc Kevin Penkin sáng tác phần nhạc.[31][32] Tomita MiyuIse Mariya, diễn viên lồng tiếng cho hai nhân vật Riko, Reg, đã thực hiện ca khúc mở đầu "Deep in Abyss" và ca khúc kết thúc "Tabi no Hidarite, Saihate no Migite", sau đó hợp tác thực hiện cùng với Izawa Shiori (vai Nanachi).[33]

Mùa anime thứ hai dự kiến phát sóng vào ngày 6 tháng 7 năm 2022.[34] Ban nhân sự cũ trở lại sản xuất mùa này. Bài hát mở đầu là "Katachi" thể hiện bởi Azuna Riko, bài hát kết thúc là "Endless Embrace" thể hiện bởi MYTH & ROID.[35]

Hai bản tổng hợp các tập của phim, Made in Abyss: Tabidachi no Yoake (メイドインアビス 旅立ちの夜明け? "Journey's Dawn")Made in Abyss: Hōrō Suru Tasogare (メイドインアビス 放浪する黄昏? "Wandering Twilight"), đã phát hành vào ngày 4 tháng 1 và 18 tháng 1 năm 2019.[36] Hai bản này được thông báo vào tháng 11 năm 2017.[37]

Một bản phim dài tiếp theo với tên Gekijōban Made in Abyss: Fukaki Tamashii no Reimei (劇場版メイドインアビス 深き魂の黎明 Made in Abyss the Movie: Dawn of the Deep Soul?),[38] được khởi chiếu vào đầu năm 2020.[39]

Sentai Filmworks đã cấp phép cho bộ anime và khởi chiếu nó trực tuyến trên nền tảng Anime Strike tại Hoa Kỳ và trên Hidive ngoài Hoa Kỳ.[40][41] MVM Films đã phát hành bộ anime ở cả Anh quốc và Ireland,[42]Madman Entertainment đã phát hành ở Úc và New Zealand.[43] Sentai Filmworks cũng cấp phép cho hai bản tổng hợp[44] và hợp tác với Fathom Events khởi chiếu nó tại Regal Cinemas ở Los Angeles vào ngày 15 tháng 3 năm 2019.[45] Made in Abyss còn được chiếu rạp với phụ đề vào ngày 20 tháng 3 và chiếu kèm bản lồng tiếng Anh vào ngày 25 tháng 3.[46]

Thực hiện

  • Đạo diễn: Kojima Masayuki
  • Trợ lý đạo diễn: Haga Hitoshi, Iino Shinya
  • Chỉ đạo sản xuất: Tsuruta Mieko, Ota Mitsuhiro, Yamshita Shimpei, Tagaki Takayuki, Isogai Tokuchi
  • Âm thanh: Yamada Haru
  • Kịch bản: Koyanagi Keigo, Kurata Hideyuki
  • Âm nhạc: Kevin Penkin
  • Nghệ thuật: Masuyama Osamu
  • Chỉ đạo diễn hoạt: Kamada Akemi, Takeuchi Atsushi, Mori Satoshi, Takakura Takeshi, Taniguchi Yoshiaki
  • Thiết kế nhân vật: Kise Kazuchika
  • Nhiếp ảnh: Ema Tsunetaka
  • Thiết kế màu sắc: Yamashita Miyao

Danh sách tập phim

STT Tên
(dịch)
Đạo diễn Kịch bản Ngày phát sóng gốc T.k.
1"Ōana no Machi (大穴の街? Thành phố của hố lớn)"Haga HitoshiKurata Hideyuki7 tháng 7 năm 2017 (2017-07-07)[47]
2"Fukkatsu-sai (復活祭? Lễ phục sinh)"Mori SatoshiKurata Hideyuki14 tháng 7 năm 2017 (2017-07-14)[48]
3"Shuppatsu (出発? Khởi hành)"Sun Hi SonKurata Hideyuki21 tháng 7 năm 2017 (2017-07-21)[49]
4"Abyss no Fuchi (アビスの淵? Vực thẳm Abyss)"Iino ShinyaKoyanagi Keigo28 tháng 7 năm 2017 (2017-07-28)[50]
5"Kasō hō (火葬砲? Pháo hỏa thiêu)"Kudō ToshiharuKoyanagi Keigo4 tháng 8 năm 2017 (2017-08-04)[51]
6"Kanshi kichi (Sneeker camp) (監視基地 (シーカーキャンプ)? Trạm tìm kiếm)"Haga HitoshiKoyanagi Keigo11 tháng 8 năm 2017 (2017-08-11)[52]
7"Fudō kyō (不動卿? Chúa tể bất động)"Iino ShinyaKurata Hideyuki18 tháng 8 năm 2017 (2017-08-18)[53]
8"Seizon Kunren (生存訓練? Huấn luyện sinh tồn)"Iino ShinyaKurata Hideyuki25 tháng 8 năm 2017 (2017-08-25)[54]
9"Dai Dansō (大断層? Lỗi lầm lớn)"Haga HitoshiKurata Hideyuki1 tháng 9 năm 2017 (2017-09-01)[55]
10"Doku to Noroi (毒と呪い? Độc và Lời nguyền)"Sun Hi SonKoyanagi Keigo8 tháng 9 năm 2017 (2017-09-08)[56]
11"Nanachi (ナナチ?)"Kudō ToshiharuKayanagi Keigo15 tháng 9 năm 2017 (2017-09-15)[57]
12"Noroi no Shōtai (呪いの正体? Bản chất thật của lời nguyền)"Kojima MasayukiKoyanagi Keigo22 tháng 9 năm 2017 (2017-09-22)[58]
13"Idomu Monatachi (挑む者たち? Thách thức)"Mori SatoshiKurata Hideyuki29 tháng 9 năm 2017 (2017-09-29)[59]

Đón nhận

Made in Abyss được đề cử giải Manga Taishō lần thứ 11 và nhận tổng điểm 40, xếp tại hạng 8.[60] Bộ manga còn thắng giải Anime of the Year (Anime của năm) và Best Score (Âm nhạc xuất sắc) tại 2017 Anime Awards của Crunchyroll.[61] Mặt khác, giới phê bình đã khen ngợi đây là một trong những bộ anime hay nhất năm 2017. Nick Creamer của Anime News Network đã ca ngợi anime tập trung tốt vào thể loại phiêu lưu, phần âm nhạc cũng như bối cảnh của Abyss.[62] Julian Malerman của THEM Anime nhận xét nó có đầy đủ yếu tố về mặt cảm xúc.[63]

Tham khảo

  1. ^ "Made in Abyss" Descends into Darkness in Sequel Series”. Crunchyroll. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  2. ^ “MADE IN ABYSS”. Sentai Filmworks. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  3. ^ chương 4, trang 14
  4. ^ a b c “Akihito Tsukushi's Made in Abyss Manga Gets TV Anime”. Anime News Network. 21 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 22 tháng 12 năm 2016. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  5. ^ “Seven Seas Licenses Made in Abyss, Nameless Asterism, Soul Liquid Chambers, Getter Robo Devolution Manga (Update)”. Anime News Network. 3 tháng 7 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  6. ^ IPM. “[TIN PHÁT HÀNH] 🌠 MADE IN ABYSS - Tập 1 🌠”. Facebook.
  7. ^ “メイドインアビス公式アンソロジー 度し難き探窟家たち”. Takeshobo (bằng tiếng Nhật). Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  8. ^ “メイドインアビス(1)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  9. ^ “Made In Abyss - 1”. IPM. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  10. ^ “メイドインアビス(2)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  11. ^ “Made In Abyss - 2”. IPM. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  12. ^ “メイドインアビス(3)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  13. ^ “Made In Abyss - 3”. IPM. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  14. ^ “メイドインアビス(4)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  15. ^ “Made In Abyss - 4”. IPM. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  16. ^ “メイドインアビス(5)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  17. ^ “Made In Abyss - 5”. IPM. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  18. ^ “メイドインアビス(6)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 14 tháng 9 năm 2021.
  19. ^ “Made In Abyss - 6”. IPM. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  20. ^ “メイドインアビス(7)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  21. ^ “Made In Abyss - 7”. IPM. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  22. ^ “メイドインアビス(8)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 3 tháng 9 năm 2020.
  23. ^ “Made In Abyss - 8”. IPM. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  24. ^ “メイドインアビス(9)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 3 tháng 9 năm 2020.
  25. ^ “Made In Abyss - 9”. IPM. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  26. ^ “メイドインアビス(10)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 14 tháng 9 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  27. ^ “Made In Abyss - 10”. IPM. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  28. ^ “メイドインアビス(11)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 20 tháng 7 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  29. ^ “Made in Abyss TV Anime Premieres in July”. Anime News Network. 22 tháng 3 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 22 tháng 3 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  30. ^ “Made in Abyss Anime Premieres on July 7”. Anime News Network. 26 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 26 tháng 5 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  31. ^ a b c “Made in Abyss Anime's Final Episode Airs as 1-Hour Special”. Anime News Network. 2 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 17 tháng 10 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  32. ^ May, Callum (4 tháng 10 năm 2017). “Interview: Made in Abyss Composer Kevin Penkin”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc 10 tháng 10 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  33. ^ “Made in Abyss Anime Reveals 2nd Promo Video, Theme Song Artists, More Cast”. Anime News Network. 9 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 10 tháng 7 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  34. ^ “Made in Abyss Anime's 2nd Season Reveals 3rd Promo Video, July 6 Premiere”. Anime News Network. Ngày 3 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  35. ^ Made in Abyss Anime Season 2's 2nd Video Reveals New Characters & Their Cast, Theme Songs Anime News Network
  36. ^ Sherman, Jennifer (26 tháng 7 năm 2018). “Made in Abyss Compilation Films Reveal Visual, January Premieres”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  37. ^ “Made in Abyss Anime Gets Sequel”. Anime News Network. ngày 26 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2017.
  38. ^ Hodgkins, Crystalyn (4 tháng 1 năm 2018). “New Made in Abyss: Fukaki Tamashii no Reimei Anime Film Revealed with Teaser Visual”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  39. ^ Pineda, Rafael Antonio (22 tháng 3 năm 2019). “Made in Abyss: Fukaki Tamashii no Reimei Anime Film Opens in January 2020”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  40. ^ “Sentai Filmworks Licenses Made in Abyss Anime for Summer Simulcast”. Anime News Network. 26 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 7 tháng 7 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  41. ^ “HIDIVE Reveals Streaming Territories, Debut Dates For Battle Girl High School, Made in Abyss Anime”. Anime News Network. 30 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 3 tháng 10 năm 2017.
  42. ^ “Latest batch of announcements. Coming next year we've got Land of the Lustrous, Love & Lies, Made in Abyss and Princess Principal”. Twitter. Lưu trữ bản gốc 21 tháng 1 năm 2018. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  43. ^ “Made in Abyss Complete Season 1 (Blu-Ray) (Limited Edition)”. Madman Entertainment. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  44. ^ Ressler, Karen (16 tháng 11 năm 2018). “Sentai Filmworks Licenses Made in Abyss, DanMachi Films”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  45. ^ “First Film in Two-Part MADE IN ABYSS Series to Debut Spring 2019 for Special Engagement”. Sentai Filmworks. 22 tháng 1 năm 2019. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  46. ^ “For the First Time, 'MADE IN ABYSS' Comes to Movie Theaters Across the U.S. March 20 and 25 Only”. Sentai Filmworks. 29 tháng 1 năm 2019. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  47. ^ “第1話「大穴の街」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  48. ^ “第2話「復活祭」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  49. ^ “第3話「出発」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  50. ^ “第4話「アビスの淵」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  51. ^ “第5話「火葬砲”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  52. ^ “第6話「監視基地 (シーカーキャンプ)」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  53. ^ “第7話「不動卿」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 16 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  54. ^ “第8話「生存訓練」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 17 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  55. ^ “第9話「大断層」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 16 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  56. ^ “第10話「毒と呪い」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 17 tháng 9 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  57. ^ “第11話「ナナチ」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 15 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  58. ^ “第12話「呪いの正体」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 29 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  59. ^ “第13話「挑む者たち」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 29 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  60. ^ Loo, Egan; Hodgkins, Crystalyn (22 tháng 3 năm 2018). “Paru Itagaki's BEASTARS Wins 11th Manga Taisho Awards”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  61. ^ Loveridge, Lynzee (25 tháng 2 năm 2018). “Made in Abyss, My Hero Academia Win Big at Crunchyroll's Anime Awards”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  62. ^ Creamer, Nick (25 tháng 10 năm 2017). “Made in Abyss Episodes 1-13 Streaming - Review”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập 25 tháng 4 năm 2019.
  63. ^ Malerman, Julian. “Made in Abyss”. THEM Anime Reviews. Lưu trữ bản gốc 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập 25 tháng 4 năm 2019.

Liên kết ngoài