Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Adele”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã cứu 1 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.9.5
Reformat 3 URLs (Wayback Medic 2.5)) #IABot (v2.0.9.5) (GreenC bot
Dòng 77:
Adele cho biết một trong những khoảnh khắc quyết định cuộc đời cô là khi xem [[Pink (ca sĩ)|Pink]] biểu diễn tại [[Học viện Brixton]]. "Cô ấy hát bài ''[[Missundaztood]]'', lúc đó tôi chỉ khoảng 13 hay 14. Tôi chưa bao giờ nghe một ai, đặc biệt khi biểu diễn trong nhà, hát live hay như thế […] Tôi nhớ cảm giác như tôi đang ở trong một cái hầm thông gió, giọng ca của cô ấy như thúc giục tôi. Thật là tuyệt vời."<ref>{{Chú thích web |url=http://www.spinner.com/2010/12/23/adele-defining-moments/ |tiêu đề=Adele – Defining Moments |nhà xuất bản=Spinner |ngày=ngày 23 tháng 12 năm 2010 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012 |archive-date=2012-09-21 |archive-url=https://web.archive.org/web/20120921054302/http://www.spinner.com/2010/12/23/adele-defining-moments/ }}</ref><ref>{{Chú thích web |url=http://socialitelife.com/adele-says-hearing-pink-sing-changed-her-life-12-2010 |tiêu đề=Adele Says Hearing Pink Sing Changed Her Life |nhà xuất bản=Socialite Life |ngày= |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012 |archive-date=2012-07-12 |archive-url=https://web.archive.org/web/20120712132830/http://socialitelife.com/adele-says-hearing-pink-sing-changed-her-life-12-2010 |url-status=dead }}</ref>
 
Ở tuổi 14, Adele tình cờ biết đến [[Etta James]] và [[Ella Fitzgerald]] khi cô đi ngang qua dãy bán CD của các nghệ sĩ jazz tại một cửa hàng băng đĩa địa phương, và cô bị thu hút bởi hình ảnh của họ trên bìa đĩa nhạc.<ref name=AmyWho/> Adele nói cô "bắt đầu nghe Etta James mỗi đêm một tiếng đồng hồ", và dần dần cô tự "khám phá ra giọng của chính mình".<ref name=AmyWho/> Adele tốt nghiệp trường [[BRIT School|Biểu diễn nghệ thuật và Công nghệ BRIT]] tại Croydon vào tháng 5 năm 2006,<ref name=Soul>{{chú thích báo| first=Ian| last=Youngs| title=Soul singers top new talent list|publisher=BBC News | url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/7169307.stm| date=ngày 4 tháng 1 năm 2008 | access-date =ngày 1 tháng 1 năm 2010}}</ref>, cũng là ngôi trường cô học chung với [[Leona Lewis]] và [[Jessie J]].<ref name=nicole/><ref name=collis>Collis, Clark (ngày 19 tháng 12 năm 2008), "Spotlight on... Adele". ''Entertainment Weekly''. (1026):62</ref> Adele tin rằng chính ngôi trường ấy đã nuôi dưỡng tài năng của mình<ref name="BlogCriticsInterview">{{Chú thích web |url=http://blogcritics.org/archives/2008/07/16/084115.php |tiêu đề=Interview: Adele—Singer and Songwriter—Blogcritics Music |nhà xuất bản=Blogcritics.org |ngày truy cập=ngày 18 tháng 8 năm 2011 |archive-date=2009-04-04 |archive-url=https://archive.istoday/20090404132447/http://blogcritics.org/archives/2008/07/16/084115.php |url-status=dead }}</ref> mặc dù vào thời điểm ấy, cô lại muốn học làm quản lý và phát hiện tài năng nghệ thuật, với mong muốn xây dựng sự nghiệp âm nhạc cho người khác.<ref name=nicole/>
 
==Sự nghiệp==
Dòng 91:
 
[[Tập tin:Adele 2009.jpg|thumb|left|200px|Adele biểu diễn trên sân khấu năm 2009]]
Cô sau đó hủy chuyến lưu diễn Mỹ năm 2008 để được ở cạnh bạn trai cũ. Cô nói với tạp chí ''[[Nylon (tạp chí)|Nylon]]'' vào tháng 6 năm 2009, "Tôi thấy là, 'Tôi không thể tin là mình lại làm vậy.' Có vẻ nó hơi vô tâm… Tôi đã uống hơi nhiều, và đó cũng là chuyện căn bản trong mối quan hệ giữa tôi và anh ta. Tôi không thể sống xa anh ấy, và tôi nghĩ, 'Thôi, OK, mình chỉ việc hủy mọi việc lại thôi'." Vào giữa tháng 10 năm 2008, có vẻ như nỗ lực của Adele tấn công vào thị trường Hoa Kỳ gần như thất bại.<ref name=MELISSARUGGIER>{{Chú thích web|url=http://www.inrich.com/cva/ric/entertainment.apx.-content-articles-RTD-ngày 23 tháng 10 năm 2008-0002.html|tiêu đề=The Richmond Times Dispatch | ngày=ngày 23 tháng 10 năm 2008}}{{dead link|date=August 2011}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.boston.com/ae/celebrity/articles/2009/01/12/19_going_on_superstar/|title='19' going on superstar | work=The Boston Globe | first=James | last=Reed | date=ngày 12 tháng 1 năm 2009}}</ref> Sau đó, cô hát với tư cách khách mời vào ngày 18 tháng 10 năm 2008 trong một tập của chương trình ''[[Saturday Night Live]]'' của đài [[NBC]]. Chương trình còn có sự xuất hiện của ứng viên phó tổng thống Mỹ [[Sarah Palin]] và tập này nhận được tỉ lệ xem cao nhất trong 14 năm với 17 triệu lượt xem. Adele đã biểu diễn 2 ca khúc "Chasing Pavements" và "[[Cold Shoulder (bài hát)|Cold Shoulder]]",<ref>{{chú thích báo|url=http://tv.nytimes.com/episode/4924446/Saturday-Night-Live/overview|title=Saturday Night Live Season 34 Josh Brolin/Adele |work=The New York Times |access-date =ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> và ngày hôm sau, album ''19'' đứng đầu bảng xếp hạng trên iTunes và xếp hạng 5 trên Amazon.com, trong khi đó bài hát "Chasing Pavements" leo lên đến hạng 25.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.newsday.com/entertainment/music/backstage-pass-1.811987/adele-enjoys-an-snl-bump-1.832659|tiêu đề=Adele enjoys an "SNL" bump|work=Newsday|ngày=ngày 20 tháng 10 năm 2008|ngày truy cập=2014-06-30|archive-date=2012-06-29|archive-url=https://archive.istoday/20120629202247/http://www.newsday.com/entertainment/music/backstage-pass-1.811987/adele-enjoys-an-snl-bump-1.832659|url-status=dead}}</ref> Album đạt vị trí 11 trên [[Billboard 200]] tiếp theo đó, một bước nhảy đến 35 bậc so với tuần trước..<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/1043648/acdc-debuts-at-no-1-with-784000|tiêu đề=AC/DC Debuts At No. 1 With 784,000 |work=Billboard |ngày=ngày 29 tháng 10 năm 2008}}</ref>
 
Tháng 11 năm 2008, Adele chuyển đến [[Notting Hill]] sau khi rời nhà mẹ mình, một bước chuyển biến giúp cô dần từ bỏ rượu bia.<ref name=Cancel2008>{{Chú thích web|url=http://www.contactmusic.com/news.nsf/article/adele-explains-2008-booze-love-meltdown_1105845 |tiêu đề=Adele Explains Booze & Love Meltdown |ngày=ngày 8 tháng 6 năm 2009 |nhà xuất bản=Contactmusic |ngày truy cập=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Album được chứng nhận vàng vào tháng 2 năm 2009 bởi [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.riaa.com/newsitem.php?news_month_filter=&news_year_filter=&resultpage=&id=DDB9AF12-8F76-11DE-4FF2-E1988D17AA66 |tiêu đề=Perry's Platinum Pucker |ngày=ngày 23 tháng 3 năm 2009 |nhà xuất bản=RIAA |ngày truy cập=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Đến tháng 7 năm 2009, album đã được bán 2,2 triệu bản trên toàn thế giới.<ref>{{Chú thích web | url=http://www.digitalspy.com/music/a166444/adele-puts-career-on-hold-for-dog.html |tiêu đề=Adele 'puts career on hold for dog |nhà xuất bản=Digital Spy |ngày=ngày 21 tháng 7 năm 2009 |ngày truy cập=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref>
Dòng 114:
Adele nhận [[Giải Brit]] cho hạng mục Nghệ sĩ Solo Nữ Anh Xuất sắc nhất và Album Anh của năm được trao bởi [[George Michael]].<ref>{{chú thích báo|url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-16533246 |title=Brit Awards 2012: List of winners |publisher=[[BBC]] |date=ngày 21 tháng 2 năm 2012 |access-date =ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web |tác giả 1=Matthew Perpetua |url=http://www.rollingstone.com/music/news/adele-coldplay-lead-brit-award-nominations-20120112 |tiêu đề=Adele, Coldplay Lead BRIT Award Nominations &#124; Music News |work=[[Rolling Stone]] |ngày=ngày 12 tháng 1 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012 |archive-date=2012-07-14 |archive-url=https://web.archive.org/web/20120714011842/http://www.rollingstone.com/music/news/adele-coldplay-lead-brit-award-nominations-20120112 |url-status=dead }}</ref> Sau Giải Brit, ''21'' lần thứ 21 không lien tiếp đạt vị trí thứ nhất tại Anh Quốc.<ref name="PostBrits">{{Chú thích web|url=http://www.theofficialcharts.com/chart-news/adele-overtakes-michael-jackson-in-all-time-biggest-selling-albums-chart907/ |tiêu đề=Adele overtakes Michael Jackson in all-time biggest selling albums cha |nhà xuất bản=Theofficialcharts.com |ngày=ngày 28 tháng 2 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Album đã bán ra trên 4,5 triệu bản tại Anh và là album bán chạy thứ bốn mọi thời đại.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.officialcharts.com/chart-news/adele-overtakes-oasis-to-become-the-fourth-biggest-selling-album-of-all-time-1778/|tiêu đề=Adele overtakes Oasis to become the fourth biggest selling album of all-time|ngày=ngày 29 tháng 12 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 30 tháng 12 năm 2012}}</ref> Vào tháng 11 album vượt qua cột mốc 10 triệu bản tại Hoa Kỳ.<ref name=billboarddiamond/><ref name=riaadiamond>{{chú thích báo|url=http://www.riaa.com/newsitem.php?content_selector=newsandviews&news_month_filter=11&news_year_filter=2012&id=EFB7CD0F-C057-0494-A4D0-90A5A385816E|title=RIAA – Adele Earns RIAA Diamond for "21"|date=ngày 28 tháng 11 năm 2012|access-date =ngày 28 tháng 11 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|họ 1=Gein |tên 1=Paul |url=http://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/chart-watch-extra-adele-tops-10-million-120255136.html#more-3511 |tiêu đề=Chart Watch Extra: Adele Tops 10 Million| nhà xuất bản=[[Yahoo! Music]] |ngày=ngày 28 tháng 11 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 11 năm 2012}}</ref> Adele là nghệ sĩ duy nhất trong mười năm nhận được chứng nhận kim cương từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ cho một album một đĩa trong khoảng thời gian chưa tới hai năm kể từ khi phát hành album đó.<ref name=riaadiamond/>
 
Vào tháng 10 năm 2012, Adele xác nhận rằng cô đang viết lời, sáng tác nhạc và thu âm bài hát chủ đề của ''[[Tử địa Skyfall|Skyfall]]'', bộ phim thứ 23 về [[James Bond]].<ref>"[http://www.bbc.co.uk/newsbeat/19785659 Adele confirms Skyfall Bond theme song]" BBC Newsbeat, retrieved ngày 1 tháng 10 năm 2012</ref><ref>"[http://www.itv.com/news/ngày 1 tháng 10 năm 2012/adele-to-sing-theme-to-new-james-bond-film-skyfall/ Adele to sing theme to new James Bond film Skyfall]{{Liên kết hỏng|date=2022-01-21 |bot=InternetArchiveBot }}". ITV.com. Truy cập 1 tháng 10 năm 2012</ref> Bài hát "[[Skyfall (bài hát)|Skyfall]]" được sáng tác cùng nhà sản xuất [[Paul Epworth]], thu âm tại [[Abbey Road Studios]] và được phối nhạc giao hưởng bởi [[J. A. C. Redford]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.007.com/skyfall-official-theme-song-news/|tiêu đề=SKYFALL OFFICIAL THEME SONG NEWS RELEASE TO COINCIDE WITH BOND'S 50TH ANNIVERSARY|nhà xuất bản=007.com|ngày=ngày 1 tháng 10 năm 2012|ngày truy cập=ngày 1 tháng 10 năm 2012|archive-date=2013-01-26|archive-url=https://www.webcitation.org/6DxHNzaD5?url=http://www.007.com/skyfall-official-theme-song-news/|url-status=dead}}</ref> Adele nói rằng được thu âm "Skyfall" là "một trong những kỉ niềm tự hào nhất đời tôi." Vào ngày 14 tháng 10, "Skyfall" vươn lên vị trí thứ 2 trên UK Singles Chart nhờ lượng bán ra 92.000 bản đưa tổng doanh thu lên con số 176.000. Điều này giúp "Skyfall" san bằng thành tích bài hát chủ đề phim James Bond xếp hạng cao nhất trên UK Singles Chart với "[[A View to a Kill (bài hát)|A View to a Kill]]" của [[Duran Duran]].<ref>{{Chú thích web |url=http://www.officialcharts.com/chart-news/swedish-house-mafia-deny-adele-a-number-1-single-for-a-second-week-1642/ |tiêu đề=Swedish House Mafia deny Adele a Number 1 single for a second week |ngày=ngày 14 tháng 10 năm 2012 |nhà xuất bản=[[The Official Charts Company]] |ngày truy cập=ngày 14 tháng 10 năm 2012}}</ref> Bài hát đứng thứ 8 trên ''Billboard'' Hot 100, tiêu thụ 261.000 trong ba ngày đầu tại Hoa Kỳ.<ref>{{chú thích báo |url=http://www.billboard.com/articles/news/474715/adeles-skyfall-not-a-lock-for-uk-no-1 |title=Adele's 'Skyfall' Not a Lock for U.K. No. 1 |date=ngày 10 tháng 10 năm 2012 |work=[[Billboard]] |access-date =ngày 10 tháng 10 năm 2012}}</ref> "Skyfall" đã bán ra hơn hai triệu bản trên toàn cầu<ref>{{Chú thích web|url=http://news.sky.com/story/1018076/adele-sets-new-record-for-us-album-sales|tiêu đề=Adele Sets New Record For US Album Sales|work=Sky News|nhà xuất bản=British Sky Broadcasting |ngày=ngày 29 tháng 11 năm 2012|ngày truy cập=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref> và mang về cho Adele [[Giải Quả cầu vàng]] cho [[Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất|Ca khúc nhạc phim hay nhất]]<ref>{{Chú thích web |url=http://www.goldenglobes.org/2013/01/winners-list/ |tiêu đề=The 70th Annual Golden Globe Awards, Winners List |ngày=ngày 14 tháng 1 năm 2013 |nhà xuất bản=[[Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood|HFPA]] |ngày truy cập=ngày 14 tháng 1 năm 2013 |archive-date=2013-04-14 |archive-url=https://archive.istoday/20130414202011/http://www.goldenglobes.org/2013/01/winners-list/ |url-status=dead }}</ref> và [[Giải Oscar]] cho [[Giải Oscar cho ca khúc trong phim hay nhất|Ca khúc nhạc phim hay nhất]].<ref>{{chú thích báo |url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-21570148 |title=Adele Skyfall wins best song Oscar |date=ngày 25 tháng 2 năm 2013 |publisher=[[BBC News]] |access-date =ngày 25 tháng 2 năm 2013 }}</ref> Vào tháng 12 năm 2012, Adele được ''Billboard'' chọn là Nghệ sĩ của năm, còn ''21'' là Album của năm, giúp cô trở thành nghệ sĩ đầu tiên nhận cả hai danh hiệu trong hai năm liên tiếp.<ref name="ArtistofYear">{{Chú thích web|url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-20747039|tiêu đề=Adele named Billboard top artist of 2012 |nhà xuất bản=[[BBC News]] |ngày=ngày 16 tháng 12 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref> [[Associated Press]] chọn Adele là Nghệ sĩ giải trí của năm 2012.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/news/1481295/adele-named-ap-entertainer-of-the-year |tiêu đề=Adele Named AP Entertainer of the Year |ngày=ngày 20 tháng 12 năm 2012 |work=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]] |ngày truy cập=ngày 28 tháng 12 năm 2012}}</ref> Tại [[Giải Grammy lần thứ 55]] phần thể hiện trực tiếp bài hát "Set Fire to the Rain" của Adele giành [[Giải Grammy cho Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất]], đưa tổng số giải Grammy của cô lên con số 9.<ref>{{Chú thích web|url=http://news.sky.com/story/1050358/grammys-adele-wins-best-pop-solo-performance|tiêu đề=Grammys: Adele Wins Best Pop Solo Performance|nhà xuất bản=Sky News|ngày truy cập=ngày 15 tháng 7 năm 2013}}</ref>
 
=== 2013–14: Vắng bóng===