Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Gia Long”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
 
(Không hiển thị 164 phiên bản của 75 người dùng ở giữa)
Dòng 1:
{{pp-vandalism|small=yes}}
{{Bài cùng tên}}
{{quá dài|rps=330|date=tháng 3/2021}}
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
{{Infobox royalty
| tên = Gia Long<br>Nguyễn Thế Tổ
|name=Nguyễn Thế Tổ<br>Gia Long
| tên gốc = 嘉隆
|image=Emperor Gia Long.jpg
| tước vị = [[Vua Việt Nam]]
|caption=
| tước vị thêm =
|father= [[Nguyễn Phúc Luân]]
| thêm = vietnam
|mother= [[Nguyễn Thị Hoàn]]
| hình = Emperor Gia Long.jpg
|spouse=[[Tống Phúc Thị Lan|Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu]]<br>[[Trần Thị Đang|Thuận Thiên Cao hoàng hậu]]<br> Hơn 100 thê thiếp
| cỡ hình = 250px
|issue=[[Nguyễn Phúc Cảnh]]<br>[[Minh Mạng|Nguyễn Phúc Đảm]]<br>13 con trai và 18 con gái khác
| ghi chú hình = Chân dung phổ biến của vua Gia Long. Ký họa theo mô tả của Michel Đức Chaigneau (1803-1894) .
|birth_date={{birth date|1762|2|8}}
| chức vị =
|birth_place = [[Phú Xuân]], [[Đàng Trong]], [[Đại Việt]]
| tại vị =
|death_date={{death date and age|1820|2|3|1762|2|8}}
| chức vị 2 = [[Hoàng đế]] [[Việt Nam]]
|death_place = [[Hoàng thành Huế]]
| tại vị 2 = [[1 tháng 6]] năm [[1806]] – <br>[[3 tháng 2]] năm [[1820]]<br>({{số năm theo năm và ngày|1802|6|1|1820|2|3}}) <timeline>
|place of burial = [[Thiên Thọ Lăng]]
ImageSize = width:200 height:50
|full name= Nguyễn Phúc Ánh ({{linktext|阮|福|暎}})
PlotArea = width:170 height:30 left:14 bottom:20
|succession= [[Vua Việt Nam|Hoàng đế Đại Việt]]
TimeAxis = orientation:horizontal
|reign= 23 tháng 6 năm 1802 – 1804
DateFormat = yyyy
|predecessor= [[Nguyễn Quang Toản]] của [[Nhà Tây Sơn]]
Period = from:1802 till:1945
|successor= ''Đại Việt đổi tên thành Việt Nam''
AlignBars = early
|succession1= [[Vua Việt Nam|Hoàng đế Việt Nam]]
ScaleMajor = increment:143 start:1802
|reign1= 1804 – 3 tháng 2 năm 1820
Colors =
|predecessor1= ''Đại Việt đổi tên thành Việt Nam''
id:canvas value:rgb(1,1,0.97)
|successor1= [[Minh Mạng]]
BackgroundColors = canvas:canvas
|succession2= [[Vua Việt Nam|Hoàng đế triều Nguyễn]]
PlotData =
|reign2= 1802–1820
width:15 color:black
|predecessor2= ''Triều đại thành lập''
bar:era from:start till:end
|successor2= [[Minh Mạng]]
bar:era from:1802 till:1820 color:red
| regent = [[Minh Mạng]] (1818–1820)
</timeline>
|succession3= [[Chúa Nguyễn]]
| kiểu tại vị 2 = Trị vì
|reign3= đăngtháng quang5 2năm =1777 [[1– 23 tháng 6]] năm [[Nhâm Tuất]] ([[1802]])
|predecessor3=[[Nguyễn Phúc Dương]]
| tiền nhiệm 2 = <span style="color:green;">'''Sáng lập triều đại'''</span>
|successor3=''Kết thúc''
| kế nhiệm =
| chức vị 1 house= [[ChúaNhà Nguyễn Phúc|Nguyễn VươngPhúc]]
|regnal name =Đại nguyên súy Nhiếp quốc chính ({{linktext|大元帥|攝|國政}}, 1778–1780)<ref name="harvnb6">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|p=107}}</ref><br>Nguyễn Vương ({{linktext|阮|王}}; 1780–1802)<ref name="harvnb33">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=278}}</ref>
| đăng quang 1 = [[1780]]
|era name =Gia Long ({{linktext|嘉|隆}})
| tại vị 1 = [[1780]] &ndash; [[1802]]<timeline>
|era dates= 1802–1820
ImageSize = width:200 height:50
|temple name= Thế Tổ ({{linktext|世|祖}})
PlotArea = width:170 height:30 left:14 bottom:20
|posthumous name=Khai thiên Hoằng đạo Lập kỷ Thùy thống Thần văn Thánh võ Tuấn đức Long công Chí nhân Đại hiếu '''Cao hoàng đế'''<br>開天弘道立紀垂統神文聖武俊德隆功至仁大孝'''高皇帝'''
TimeAxis = orientation:horizontal
|religion = [[Khổng giáo]]
DateFormat = yyyy
Period = from:1558 till:1802
AlignBars = early
ScaleMajor = increment:244 start:1558
Colors =
id:canvas value:rgb(1,1,0.97)
BackgroundColors = canvas:canvas
PlotData =
width:15 color:black
bar:era from:start till:end
bar:era from:1780 till:1802 color:red
</timeline>
| Kiểu trị vì = Tại vị
| tiền nhiệm 1 = [[Nguyễn Phúc Dương]]
| kế nhiệm 1 = <span style="color:red;">'''Lên ngôi hoàng đế'''</span>
| đăng quang =
| tiền nhiệm =
| nhiếp chính =
| kế nhiệm 2 = [[Minh Mạng]]
| thông tin phối ngẫu = ẩn
| kiểu phối ngẫu =
| phối ngẫu =
| chồng =
| vợ = Thừa Thiên Cao Hoàng hậu [[Tống Phúc Thị Lan]]<br>Thuận Thiên Cao Hoàng hậu [[Trần Thị Đang]]<br>Đức phi [[Lê Ngọc Bình]]<br>''[[#Hậu cung|cùng nhiều thê thiếp khác]]''.
| kiểu tên đầy đủ = Tên húy
| tên đầy đủ = Nguyễn Phúc Ánh (阮福暎)
| tên tự =
| tên hiệu =
| tước hiệu =
| tước vị đầy đủ =
| thông tin niên hiệu =
| niên hiệu = Gia Long (嘉隆)
| thời gian của niên hiệu =
| thụy hiệu = <span style="color:grey;">Khai thiên Hoằng đạo Lập kỷ Thùy thống Thần văn Thánh võ Tuấn đức Long công Chí nhân Đại hiếu '''Cao Hoàng đế'''</span><br>(開天弘道立紀垂統神文聖武俊德隆功至仁大孝高皇帝)
| tôn hiệu =
| miếu hiệu = [[Thế Tổ]] (世祖)
| triều đại = [[Nhà Nguyễn|Hoàng triều Nguyễn]]
| ca khúc hoàng gia = [[Đăng đàn cung]]
| cha = Khang Hoàng đế [[Nguyễn Phúc Luân]]
| mẹ = Khang Hoàng hậu [[Nguyễn Thị Hoàn]]
| con cái = [[Nguyễn Phúc Cảnh]]<br>[[Minh Mạng]]<br>...<br>[[#Hậu duệ|''tổng cộng 13 hoàng tử và 18 công chúa'']]
| sinh = ngày [[8 tháng 2]] năm [[1762]]
| nơi sinh = [[Huế]], [[Đại Việt]]
| mất = ngày [[3 tháng 2]] năm [[1820]] (57 tuổi)
| nơi mất = [[Huế]], [[Đại Nam]]
| ngày an táng =
| nơi an táng = [[Lăng Gia Long|Thiên Thọ Lăng]], [[Huế]]
| học vấn =
| nghề nghiệp =
| tôn giáo = [[Nho giáo]], [[Phật giáo]]
| chữ ký =
}}
'''Gia Long''' ({{hn|ch=嘉隆}}; [[8 tháng 2]] năm [[1762]] – [[3 tháng 2]] năm [[1820]]), [[tên húy]] là '''Nguyễn Phúc Ánh''' (阮福暎), thường được gọi tắt là '''Nguyễn Ánh''' (阮暎) là nhà chính trị, nhà quân sự và là vị [[hoàng đế]] sáng lập [[nhà Nguyễn]], [[triều đại]] [[quân chủ]] cuối cùng trong [[lịch sử Việt Nam]]. Ông trị vì từ năm [[1802]] đến khi qua đời năm [[1820]], được truy tôn miếu hiệu là '''Nguyễn Thế Tổ''' (阮世祖). Trong suốt thời gian trị vì ông chỉ sử dụng một niên hiệu là '''Gia Long''' (嘉隆), nên thường được gọi là '''Gia Long Đế.'''
 
'''Gia Long'''<ref>Nguyễn Phúc Tộc thế phả- Nhà xuất bản Thuận Hóa- Huế 1995</ref> ({{hn|ch=嘉隆}}; 8 tháng 2 năm 1762&nbsp;– 3 tháng 2 năm 1820), [[tên húy]] là '''Nguyễn Phúc Ánh''' (阮福暎), thường được gọi là '''Nguyễn Ánh''' (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự [[người Việt Nam]], vị [[hoàng đế|vua]] sáng lập [[nhà Nguyễn]], [[triều đại]] [[quân chủ]] cuối cùng trong [[lịch sử Việt Nam]]. Ông trị vì từ năm [[1802]] đến khi qua đời năm [[1820]], được truy tôn miếu hiệu là '''Nguyễn Thế Tổ''' (阮世祖). Trong suốt thời gian trị vì ông chỉ sử dụng một niên hiệu là '''Gia Long''' (嘉隆), nên thường được gọi là '''Gia Long Đế.'''
Nguyễn Ánh là cháu nội của chúa [[Nguyễn Phúc Khoát]], vị [[chúa Nguyễn]] áp chót ở [[Đàng Trong]]. Sau khi gia tộc chúa Nguyễn bị [[nhà Tây Sơn|quân Tây Sơn]] lật đổ vào năm [[1777]], ông trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với [[Tây Sơn]] để khôi phục ngôi vị. Ban đầu Nguyễn Ánh chịu nhiều thất bại lớn, phải cầu viện quân [[Xiêm|Xiêm La]] đánh vào [[Nam Bộ (Việt Nam)|Nam Bộ]], rồi lại cầu viện [[Pháp]] để nước này xuất quân sang đánh Tây Sơn nhưng không thành. Nguyễn Ánh phải chạy sang Xiêm La và sống lưu vong ở đây trong ba năm. Hành vi dẫn đường cho quân đội Xiêm La đánh vào lãnh thổ đất nước, việc chở gạo giúp quân Thanh và cắt lãnh thổ cho Pháp của Gia Long đã bị các sử gia thời hiện đại chỉ trích.<ref>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/lich-su-dan-toc-khong-co-cho-cho-ke-ruoc-voi-giay-ma-to/ Lịch sử dân tộc không có chỗ cho kẻ “rước voi giày mả tổ”!]</ref>
 
Nguyễn Ánh là cháu nội của chúa [[Nguyễn Phúc Khoát]], vị [[chúa Nguyễn]] áp chót ở [[Đàng Trong]]. Sau khi gia tộc chúa Nguyễn bị [[nhà Tây Sơn|quân Tây Sơn]] lật đổ vào năm [[1777]], ông trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với [[Tây Sơn]] để khôi phục ngôi vị. Ban đầu Nguyễn Ánh chịu nhiều thất bại lớn, có lúc phải chạy sang [[Xiêm|Xiêm La]] và sống lưu vong ở đây trong ba năm. Để chống Tây Sơn, ông nhiều lần cầu viện nước ngoài, bao gồm việc mời quân Xiêm đánh vào Nam bộ<ref name="harvnb15"/>, hứa cắt đất và cống nạp để mời quân Pháp<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=183}}</ref>, và chở 50 vạn cân gạo để giúp quân Thanh đang chiếm đóng Bắc bộ<ref name="harvnb36" />
Năm 1787, ông đã trở lại và giữ vững được [[Nam Bộ]]. Về sau, lúc Tây Sơn suy yếu sau cái chết đột ngột của vua [[Quang Trung]] vào năm [[1792]], Nguyễn Ánh bắt đầu tiến đánh nhà Tây Sơn và đến năm [[1802]] thì đánh bại Tây Sơn, lên ngôi [[hoàng đế]], lập ra [[nhà Nguyễn]], thống nhất đất nước và kết thúc nhiều thế kỷ nội chiến ở Việt Nam. Triều đại của Gia Long đã chính thức sử dụng quốc hiệu [[Các tên gọi của nước Việt Nam|Việt Nam]]. Ông cũng quyết định đóng kinh đô tại thủ phủ cũ của các Chúa Nguyễn là [[Cố đô Huế|Phú Xuân]] (Huế).<ref>Trần Đức Anh Sơn, tr. 18.</ref> Lãnh thổ nước Việt thời Gia Long về cơ bản được định hình giống như ngày nay, kéo dài từ biên giới với [[Trung Quốc]] tới [[vịnh Thái Lan]], bao gồm cả quần đảo [[Quần đảo Hoàng Sa|Hoàng Sa]] và [[Quần đảo Trường Sa|Trường Sa]], tuy nhiên diện tích [[Miền Trung (Việt Nam)|miền Trung]] đã bị thu hẹp lại do Gia Long cắt vùng [[Bồn Man|Trấn Ninh]] (rộng khoảng 45.000&nbsp;km²) cho vương quốc [[Vương quốc Viêng Chăn|Vạn Tượng]] để nhận lấy sự ủng hộ của họ trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn (vùng này ngày nay là [[lãnh thổ]] của [[Lào]]).<ref>[[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]], tr. 552.</ref> Với việc cắt [[Bồn Man|Trấn Ninh]] cho [[Lào]], Gia Long là ông vua trao lãnh thổ đất nước cho ngoại quốc nhiều thứ 2 trong lịch sử Việt Nam (chỉ kém việc chắt nội của ông là vua [[Tự Đức]] đã cắt cả [[Nam Kỳ Lục tỉnh]] cho [[thực dân Pháp]]){{fact}}.
 
Năm [[1787]], ông đã trở lại và giữ vững được [[Nam Bộ]]. Về sau, lúc Tây Sơn suy yếu sau cái chết đột ngột của vua [[Quang Trung]] vào năm [[1792]], Nguyễn Ánh bắt đầu tiến đánh nhà Tây Sơn và đến năm [[1802]] thì đánh bại Tây Sơn, lên ngôi [[hoàng đế]], lập ra [[nhà Nguyễn]], thống nhất đất nước và kết thúc nhiều thế kỷ nội chiến ở Việt Nam. Triều đại của Gia Long đã chính thức sử dụng quốc hiệu [[Các tên gọi của nước Việt Nam|Việt Nam]]. Ông cũng quyết định đóng kinh đô tại thủ phủ cũ của các Chúa Nguyễn là [[Cố đô Huế|Phú Xuân]] (Huế).<ref>Trần Đức Anh Sơn, tr. 18.</ref> Lãnh thổ nước Việt thời Gia Long về cơ bản được định hình giống như ngày nay, kéo dài từ biên giới với [[Trung Quốc]] tới [[vịnh Thái Lan]], bao gồm cả quần đảo [[Quần đảo Hoàng Sa|Hoàng Sa]] và [[Quần đảo Trường Sa|Trường Sa]], tuy nhiên diện tích [[Miền Trung (Việt Nam)|miền Trung]] đã bị thu hẹp lại do Gia Long cắt vùng [[Bồn Man|Trấn Ninh]], rộng khoảng 45.000&nbsp;km² và nay là [[lãnh thổ]] của [[Lào]], cho vương quốc [[Vương quốc Viêng Chăn|Vạn Tượng]] để nhận lấy sự ủng hộ của họ trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn.<ref>[[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]], tr. 552.</ref>
Về đối ngoại, ông là người mở đường cho sự can thiệp của [[người Pháp]] ở [[Việt Nam]] qua việc mời người Pháp giúp [[xây dựng]] các thành trì lớn, huấn luyện [[quân đội]] và khoan thứ cho việc truyền đạo [[Công giáo tại Việt Nam]]. Về mặt đối nội, nước Việt thời Gia Long không được ổn định, do Gia Long tăng thuế khóa và lao dịch quá nặng nên bị người dân bất bình,<ref name="đượclsvn16" /> chỉ trong 18 năm đã có khoảng 90 cuộc khởi nghĩa nổ ra trên cả nước.<ref name="Việt Nam 1858">Lịch sử Việt Nam (1427-1858), tr. 166-173.</ref> Gia Long cũng xóa bỏ các [[cải cách]] tiến bộ của [[Nhà Tây Sơn|triều Tây Sơn]] để thay bằng việc áp dụng các chính sách cai trị phong kiến khá bảo thủ, tiêu biểu là việc cấm thương nhân [[người Việt]] buôn bán với ngoại quốc,<ref name="Tarling1"/> soạn [[Hoàng Việt luật lệ|Hoàng triều luật lệ]] (còn gọi là "luật Gia Long"), gần như chép nguyên mẫu từ luật của [[nhà Thanh]] ([[Trung Quốc]]) nên khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ [[luật Hồng Đức]] của [[nhà Hậu Lê]].<ref name="Nguyễn Khắc Thuần 2005 306">{{harvnb|Nguyễn Khắc Thuần|2005|p=306}}.</ref> Lương Đức Thiệp nhận xét rằng việc Nguyễn Ánh thi hành chính sách bảo thủ, xóa bỏ các cải cách tiến bộ của [[Nhà Tây Sơn|triều Tây Sơn]] đã khiến ''"dân tộc Việt Nam vẫn cứ đứng lỳ trên một nấc tiến hóa với cái kỹ thuật canh tác không thay đổi".''<ref>khảo luận “Xã hội Việt Nam từ sơ sử tới cận đại”, Lương Đức Thiệp</ref> Các chính sách này là nguyên nhân khiến nước Việt thời nhà Nguyễn dần trở nên trì trệ, lạc hậu, không thích ứng kịp với thời đại mới và bị [[Đế quốc thực dân Pháp|đế quốc Pháp]] xâm chiếm vào nửa thế kỷ sau.<ref name="tcs" />
 
Về đối ngoại, ông là người mở đường cho sự can thiệp của [[người Pháp]] ở [[Việt Nam]] qua việc mời người Pháp giúp [[xây dựng]] các thành trì lớn, huấn luyện [[quân đội]] và khoan thứ cho việc truyền đạo [[Công giáo tại Việt Nam]]. Về mặt đối nội, nước Việt thời Gia Long không được ổn định, do Gia Long tăng thuế khóa và lao dịch quá nặng nên bị người dân bất bình,<ref name="đượclsvn16" /> chỉ trong 18 năm đã có khoảng 90 cuộc khởi nghĩa nổ ra trên cả nước.<ref name="Việt Nam 1858">Lịch sử Việt Nam (1427-1858), tr. 166-173.</ref> Gia Long cũng xóa bỏ các [[cải cách]] tiến bộ của [[Nhà Tây Sơn|triều Tây Sơn]] để thay bằng việc áp dụng các chính sách cai trị phong kiến khá bảo thủ, tiêu biểu là việc cấm thương nhân [[người Việt]] buôn bán với ngoại quốc,<ref name="Tarling1"/> soạn [[Hoàng Việt luật lệ|Hoàng triều luật lệ]] hay còn gọi là "luật Gia Long", gần như chép nguyên mẫu từ luật của [[nhà Thanh]] ([[Trung Quốc]]) nên khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ [[luật Hồng Đức]] của [[nhà Hậu Lê]].<ref name="Nguyễn Khắc Thuần 2005 306">{{harvnb|Nguyễn Khắc Thuần|2005|p=306}}.</ref> Các chính sách bảo thủ là nguyên nhân khiến nước Việt thời nhà Nguyễn dần trở nên trì trệ, lạc hậu, không thích ứng kịp với thời đại mới và bị [[Đế quốc thực dân Pháp|đế quốc Pháp]] xâm chiếm vào nửa thế kỷ sau.<ref name="tcs" />
 
==Thời trẻ==
Nguyễn Ánh sinh vào ngày [[15 tháng 1]] năm [[Nhâm Ngọ]] (tức ngày [[8 tháng 2]] năm [[1762]]), là con trai thứ ba của vương tử [[Nguyễn Phúc Luân]] và Nguyễn Thị Hoàn.<ref name="harvnb32">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=277}}.</ref> Khi còn nhỏ Nguyễn Ánh còn có tên khác là '''Nguyễn Phúc Chủng''' (阮福種) và '''Noãn''' (暖).<ref name="harvnb32" /><ref name="luongkimthanh"/>.
 
Nguyễn Ánh sinh ra vào thời kỳ nước [[Đại Việt]] bị chia làm hai, lấy ranh giới ở [[sông Gianh]] ([[Quảng Bình]]): từ sông Gianh ra Bắc là Đàng Ngoài có nhà nước của [[nhà Lê trung hưng|vua Lê]] – [[chúa Trịnh]]; lãnh thổ từ [[sông Gianh]] vào Nam là Đàng Trong, nằm dưới sự cai trị của [[chúa Nguyễn]]. Chúa Nguyễn tự đặt chính sách kinh tế, quân sự, tài khóa riêng cho Đàng Trong, dù trên danh nghĩa các chúa Nguyễn vẫn là quan của nhà Lê, hàng năm nộp cống và dùng niên hiệu của vua Lê. Ông nội Nguyễn Ánh là Vũ vương [[Nguyễn Phúc Khoát]], chúa thứ 8 của họ Nguyễn. Vũ vương mất năm [[1765]]; trước đó thế tử Nguyễn Phúc Hiệu đã chết, con thế tử là [[Nguyễn Phúc Dương]] còn nhỏ, nên Vũ vương có di chiếu truyền ngôi cho Phúc Luân.{{sfn|Trần Trọng Kim|1971|pp=135-144}} Nhưng quan phụ chính [[Trương Phúc Loan]] chuyên quyền, bèn sửa di chiếu lập con thứ 12 của Vũ vương là [[Nguyễn Phúc Thuần|Phúc Thuần]] làm chúa. Phúc Luân bị bắt giam và chết trong ngục; năm đó Nguyễn Ánh mới 4 tuổi.<ref name="harvnb32" /><ref name="luongkimthanh"/>
 
==Trốn chạy Tây Sơn==
Khi Nguyễn Ánh được 9 tuổi ([[1771]]), 3 anh em [[Nguyễn Nhạc]], [[Quang Trung|Nguyễn Huệ]], [[Nguyễn Lữ]] dấylấy binh ở [[Tây Sơn]] chống chúa Nguyễn. Năm ông 13 tuổi ([[1775]]), [[chúa Nguyễn]] bị quân Lê – Trịnh do [[Hoàng Ngũ Phúc]] chỉ huy và quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] đánh kẹp từ hai mặt. Nguyễn Ánh và 4 anh em trong nhà đi theo [[Nguyễn Phúc Thuần]] chạy vào [[Quảng Nam]] rồi vượt biển vào khu vực [[Gia Định]] (vùng [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]] ngày nay).<ref name="harvnb32" /><ref name="luongkimthanh">{{harvnb|Lưỡng Kim Thành|2012|pp=76-77}}.</ref><ref name="tk56">{{harvnb|Thụy Khuê|2017|p=56}}.</ref>
 
Tháng 2 năm [[1777|1776]], Nguyễn Ánh dù còn nhỏ tuổi vẫn được cho giữ chức Chưởng sứ coi binh Tả Dực, và cho dự họp bàn việc quân.<ref name="tk56" />
Hàng 125 ⟶ 77:
==Xưng vương ở Nam Bộ==
[[Tập tin:Bản Đồ Xứ Gia Định Hậu Bản XVIII.png|nhỏ|phải|360px|Lược đồ một số địa danh ở Gia Định cuối [[thế kỷ XVIII]] xuất hiện trong bài viết. Bản đồ này chứa đựng hầu hết các địa danh ở miền nam Việt Nam và khu vực lân cận xuất hiện trong bài viết (riêng địa danh [[Long Xuyên (huyện cũ)|Long Xuyên thế kỷ XVIII]] nay là Cà Mau, [[Long Xuyên]] trong bản đồ này chỉ là địa danh từ cuối [[thế kỷ XIX]] khi thuộc Pháp).]]
Năm [[1778]], khi Nguyễn Ánh được 17 tuổi, các tướng tôn ông làm Đại nguyên súy Nhiếp quốc chính.<ref name="harvnb6">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|p=107}}.</ref> Ngay lập tức, vào [[tháng hai|tháng 2]] năm [[1778]], Tây Sơn phái Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy và Hộ giá [[Phạm Ngạn]] vào đánh Gia Định. Họ nhanh chóng đánh chiếm các vùng [[Trấn Biên]], [[Phiên Trấn]] và một số khu vực ven biển.<ref name="harvnb9899">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=98-99}}.</ref> Nguyễn Ánh để Đỗ Thanh Nhơn giữ Gia Định rồi cùng Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Hoằng đi đánh quân Tây Sơn ở khu vực [[Bến Lức]]. Tại Bến Lức, quân Nguyễn chặn được Tây Sơn rồi sau đó mở cuộc phản công, ngăn chặn và đẩy lùi được thủy binh Tây Sơn do Tư khấu Uy chỉ huy ở [[Bến Nghé]] rồi chiếm lại được Trấn Biên.<ref name="harvnb9899"/> Thủy binh của Phạm Ngạn thì bị [[Lê Văn Duyệt]] phá, buộc ông này phải rút về lại Quy Nhơn.<ref name="harvnb9899"/>
 
Suốt các năm [[1778]] và [[1779]], Nguyễn Ánh ra sức củng cố và mở mang [[Thành Gia Định|Phiên An trấn]] (vùng Sài Gòn-Gia Định-Long An hiện giờ) với mục đích biến vùng này thành căn cứ địa chống Tây Sơn.<ref>{{harvnb|Huỳnh Minh|2006|pp=9-10}}.</ref> Ông cho tổ chức phân chia hành chính<ref name=autogenerated11>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=509}}.</ref> đất Gia Định dưới sự cố vấn của [[Bá Đa Lộc]],<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=100}}.</ref> đặt quan coi giữ, đóng thuyền, trữ lương chuẩn bị, xây dựng chiến lũy phòng thủ và củng cố lực lượng thủy bộ.<ref name="harvnb32"/><ref>{{harvnb|Huỳnh Minh|2006|p=9}}.</ref><ref name="harvnb99"/> Trong đó Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm tới thủy binh: ngay sau khi vừa được tôn làm Đại Nguyên soái, ông liền cho đóng ngay 50 chiến hạm đầu nhọn gọi là ''Long Lâm Thuyền''.<ref name="auto">{{harvnb|Tôn Nữ Quỳnh Trân|2013|p=141}}.</ref> Hai năm sau, tướng Đỗ Thanh Nhơn lại đưa ra sáng kiến đóng thủy sư hai bánh (thuyền hai lái) với một bánh lái dài đi biển và bánh lái tròn đi sông, phía dưới thuyền có gác sàn che phiên tre hai bên bảo vệ thủy binh chèo thuyền, phía trên là bộ binh xung kích. Đây được xem là một sáng kiến cho kỹ thuật đóng thuyền thời bấy giờ.<ref name="auto"/>
Hàng 132 ⟶ 84:
 
===Quan hệ với Chân Lạp và Xiêm La===
Năm [[1779]], [[Chân Lạp]] xảy ra nội loạn do tranh giành ngôi vua, Nguyễn Ánh bèn sai Đỗ Thanh Nhơn, [[Hồ Văn Lân]] và [[Dương Công Trừng]] đi đánh Chân Lạp và giữ quân lại bảo hộ.<ref name="harvnb99">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=99}}.</ref><ref name="harvnb8" /> [[Tháng một|Tháng 1]] năm [[1780]], Nguyễn Ánh xưng vương, dùng theo niên hiệu [[Lê Hiển Tông|Cảnh Hưng của nhà Lê]] và lấy ấn "[[Bửu tỷ triều Nguyễn|Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh Trấn chi bửu]]" làm [[ngọc tỷ truyền quốc|ấn truyền quốc]],<ref name="harvnb33">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=278}}.</ref> phong cho [[Đỗ Thanh Nhơn]] chức Ngoại hữu, Phụ chính, Thượng tướng công.<ref name="autogenerated3">{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=510}}.</ref> Cùng năm, người [[Campuchia|Miên]] ở Trà Vinh dưới sự chỉ huy của tù trưởng Ốc Nha lợi dụng tình hình nổi lên chống Nguyễn Ánh, ông sai Đỗ Thanh Nhơn và [[Dương Công Trừng]] đi đánh dẹp.<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=510-511}}.</ref><ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=99-100}}.</ref> Nguyễn Ánh ngoài ra còn cho đặt quan hệ ngoại giao với Xiêm La.<ref name="harvnb8">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|p=108}}.</ref>
 
Ngay sau khi xưng vương, tháng 6 năm Canh Tý ([[1780]]), Nguyễn Ánh sai sứ là Cai cơ Sâm và Tĩnh đi sứ nước Xiêm. Khi ấy, thuyền buôn Xiêm từ [[Quảng Đông]] trở về đến phần biển [[Hà Tiên]], bị lưu thủ Thăng (không rõ họ) giết và cướp hết của cải. Vua Xiêm là [[Taksin]] giận, đem Sâm và Tĩnh giam vào ngục. Lại có người Chân Lạp là Bô Ông Giao nói gièm với vua Xiêm rằng quân Gia Định đã gởi mật thư bảo [[Tôn Thất Xuân]] và [[Mạc Thiên Tứ]] làm nội ứng, mưu lấy thành [[Băng Cốc|Vọng Các]]. Vua Xiêm rất ngờ, liền bắt hết mọi người để tra hỏi. [[Mạc Tử Dung|Mạc Tử Duyên]] (con của Thiên Tứ) hết sức cãi đó là chuyện vu cáo, bị vua Xiêm đánh chết. Thiên Tứ tự tử. Tôn Thất Xuân cùng Sâm, Tĩnh và quyến thuộc của Mạc Thiên Tứ cộng 53 người đều bị hại hết. Người Việt ngụ ở Xiêm đều bị dời hết ra nơi biên thùy.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=185}}.</ref>
Hàng 139 ⟶ 91:
 
===Thất thế trước Tây Sơn===
[[HìnhTập tin:Tdtu- gl tau quoc 1.jpg|nhỏ|200px|trái|Hình trang bìa tác phẩm ''[[Gia Long tẩu quốc]]'' của [[Tân Dân Tử]] (1875-1955) mô tả về quá trình Nguyễn Ánh bôn tẩu khắp chốn Nam Hà, điều này đã làm nảy sinh cụm từ "Gia Long tẩu quốc" (Gia Long bôn tẩu vì nước), về sau trở thành chủ đề văn học được viết thành [[tiểu thuyết]], chuyển thể thành [[cải lương]], được in chạm vào các sản phẩm gốm sứ ở miền Nam Việt Nam.<ref name="%C4%91%C3%ADnh">{{chú thích sách|author=Giáo sư Hoàng Xuân Việt|title=Tìm hiểu lịch sử chữ quốc ngữ|url=https://books.google.com/books?id=noLvBZcWoScC&pg=PA38|publisher=Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin|pages=38|id=GGKEY:KHFCN19XH57}}</ref><ref name="%C4%90%E1%BB%972004">{{chú thích sách|author=Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng văn Tửu, Trần Hữu Tá|title=Từ điển văn học: bộ mới|url=https://books.google.com/books?id=e3sLAQAAMAAJ|year=2004|publisher=Nhà xuất bản Thế giới|page=1609}}</ref>]]
Đến thời điểm [[mùa hạ|mùa hè]] năm [[1781]], quân đội của Nguyễn Ánh phát triển lên đến khoảng 3 vạn người với 80 chiến thuyền đi biển, trong đó có 3 thuyền lớn<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=512}}.</ref> và 2 tàu đánh thuê [[Bồ Đào Nha]] do Giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh mời được.<ref name=autogenerated9 /><ref name="harvnb10"/> Có lực lượng khá mạnh, ông bèn tổ chức tấn công Tây Sơn đánh tới tận đất [[Phú Yên]] nhưng sau cùng phải rút chạy vì gặp lực lượng bộ binh rất mạnh của Tây Sơn.<ref name="harvnb10">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=107-108}}.</ref> Tức giận vì tốn kém nhưng không thu được kết quả, quan lại Gia Định để cho một người phụ việc của Bá Đa Lộc là cai cơ Manuel{{ref_labelefn|aManuel còn được gọi với tên phiên âm ra [[tiếng Việt]] là Mạn Hòe ({{harvnb|aCao Tự Thanh|none2007|p=186}}), Mãn-noài ({{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=108}}).}} lập mưu giết chết các tay lính đánh thuê Bồ Đào Nha và cướp tàu của họ.<ref name="harvnb10"/>
 
Tháng 3 năm [[1782]], vua Tây Sơn là Thái Đức đế Nguyễn Nhạc cùng em trai là Nguyễn Huệ mang quân thủy bộ Nam tiến. Tây Sơn đụng trận dữ dội ở [[sông Ngã Bảy]] và [[Cần Giờ|cửa biển Cần Giờ]] với quân Nguyễn do chính Nguyễn Ánh chỉ huy. Dù lực lượng thuyền của Tây Sơn yếu hơn, nhưng nhờ lòng can đảm, họ đã phá tan quân Nguyễn đồng thời buộc Manuel tự sát, tuy vậy quân Tây Sơn cũng thiệt hại khá nhiều binh lực.<ref name="harvnb11">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=108 -109}}.</ref> Nguyễn Ánh thất trận bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng [[Romdoul]], [[Chân Lạp]]<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=109}}.</ref> (rừng Romdoul là khoảng khu vực phía bắc [[svay Rieng (tỉnh)|tỉnh Svay Rieng]]). Tây Sơn đuổi theo vào cuối [[tháng tư|tháng 4]] âm lịch, bắt vua quan Chân Lạp là [[Ang Eng]] hàng phục và buộc tất cả những người Việt ở đấy phải về nước nhưng Nguyễn Ánh lại trốn kịp. Tướng Tống Phước Thiêm bị quân Đông Sơn bắt giết.<ref name="auto1">{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=188}}.</ref>
 
Vua Thái Đức khi chiếm lại [[Miền Nam (Việt Nam)|Nam Bộ]] thì gặp phải sự chống đối mạnh của [[người Hoa (Việt Nam)|người Hoa]], ủng hộ Nguyễn Ánh tại đây. Tháng 4 âm lịch năm [[1782]], tiết chế dinh Bình Thuận là Tôn Thất Dụ đem Tả chi Trần Xuân Trạch, thuộc tướng là Trần Văn Tự, và thuộc tướng đạo [[Hòa Nghĩa]] là Trần Công Chương vào cứu viện Nguyễn Ánh. Quân Nguyễn Ánh giết được Hộ giá Tây Sơn là [[Phạm Ngạn]] ở cầu Tham Lương.<ref name="auto1"/> Đô đốc [[Phạm Ngạn]], người vốn rất thân thiết với Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, tử trận và đồng thời binh lính Tây Sơn thương vong nhiều trong khi đánh dẹp.<ref name="havrv" /><ref name="ttkks3sdsds" /> Hay tin, Nguyễn Nhạc rất đau đớn và cho rằng người Hoa có tham gia trong đội quân Hòa Nghĩa giết Phạm Ngạn.<ref name="auto1"/> Để trả thù, ông tiến hành tàn sát hơn một vạn người Hoa ở vùng Gia Định và tàn phá nặng nề vùng [[Cù lao Phố]].<ref name="havrv">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=110-111}}.</ref><ref name="ttkks3sdsds">{{harvnb|Phan Khoang|2001|pp=522-523}}.</ref> Vụ tàn sát này cộng với vụ tương tự trước kia Tây Sơn thực hiện ở [[Hội An]] khiến cho cộng đồng người Hoa giàu có, vốn dĩ trước đã có cảm tình nhiều hơn với Nguyễn Ánh, nay quay sang ủng hộ Nguyễn Ánh hết lòng cho đến hết cuộc chiến, khiến cho ông có được một nguồn lực kinh tế rất lớn.<ref name="Vo2011">{{harvnb|Vo|2011|p=36}}.</ref><ref name="Tạ Chí Đại Trường 1973 112">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=112}}.</ref> Ngoài ra, việc này còn cản chân Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, khiến cho Nguyễn Ánh có cơ hội quay trở về [[Giồng Lữ]] (Lữ Phụ)<ref>Một trong ba Giồng.</ref>. Một đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Học đem quân đuổi theo Ánh bị quân Nguyễn bắt giết khiến cho Nguyễn Ánh thu giữ được 80 thuyền của Tây Sơn. Nguyễn Ánh thấy vậy định kéo về chiếm lại Gia Định nhưng gặp Nguyễn Huệ dàn binh quay lưng ra sông đánh bại khiến Nguyễn Ánh phải bỏ chạy, Lưu thủ Thăng và Tiên phong Túy đón Nguyễn Ánh về miền [[Hậu Giang]].<ref name="auto2">{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=189}}.</ref>
 
Nguyễn Ánh sai Nguyễn Hữu Thụy, Trần Xuân Trạch cùng Cai cơ Cao Phước Trí mượn đường [[Chân Lạp]] sang [[Xiêm La]] cầu viện nhưng quân Chân Lạp lại hợp tác với Tây Sơn, giết các tướng của Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh lui về [[Rạch Giá]], Chân Lạp lại cho 30 chiến thuyền vây đánh đến Sơn Chiết, Tiên phong Túy chặn được quân Chân Lạp. Nguyễn Ánh lại rút tiếp ra [[Hà Tiên (tỉnh)|Hà Tiên]] rồi theo thuyền nhỏ trốn ra [[Phú Quốc]].<ref name="Tạ Chí Đại Trường 1973 112" /><ref name="auto2"/>
Hàng 152 ⟶ 104:
Tháng 2 âm lịch năm [[1783]], Nguyễn Nhạc sai [[Nguyễn Huệ]] và [[Nguyễn Lữ]] mang quân tiến đánh Gia Định. Quân Tây Sơn từ biển Cần Giờ ngược dòng tiến lên đánh Gia Định. Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước nhưng vẫn bị quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] phá tan trong trận đánh ở cửa Cần Giờ.<ref>{{harvnb|Nguyễn Lương Bích|Phạm Ngọc Phụng|1976|p=65}}.</ref><ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=113-114}}.</ref> Tướng của Nguyễn Ánh là [[Nguyễn Phước Mân]] bị giết chết, [[Dương Công Trừng]] bị bắt sống, chỉ riêng [[Châu Văn Tiếp]] chạy thoát. Bản thân Nguyễn Ánh buộc phải bỏ chạy về Ba Giồng cùng tướng Nguyễn Kim Phẩm với tầm 100 quân.<ref name="auto4"/><ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=114}}.</ref>
 
Tháng 4 âm lịch, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Kim Phẩm làm tiên phong và [[Nguyễn Huỳnh Đức]] chỉ huy một đạo quân người [[Chân Lạp]] làm hậu ứng, tập hợp cùng các tướng Tôn Thất Dụ, Nguyễn Đình Huyên, Lại bộ Hồ Đồng, Binh bộ Minh, Tham nghị Trần Đại Thể, Tham mưu Trần Đại Huề (con Đại Thể), Hoảng làm Tả chi, Nguyễn Văn Quý làm Hữu chi, quay về đóng quân ở [[Đồng Tuyên]].<ref name="autogenerated7" /><ref name="harvnb12" /> Nguyễn Huệ hay tin, kéo quân [[trận Đồng Tuyên|đánh phá Đồng Tuyên]], quân Nguyễn Ánh thua to. Trong trận này, Đồng bị Tây Sơn bắt, còn Minh, Quý, Thuyên và Huề đều chết.<ref name="harvnb12" /> Riêng Nguyễn Ánh chạy về sông Lật Giang (nay là đoạn sông [[Vàm Cỏ Đông]] ngang [[Bến Lức]]) dưới sự truy sát của Tây Sơn, tới khúc sông gặp nước chảy mạnh, nhiều tùy tùng chết đuối, còn Nguyễn Ánh nhờ biết bơi nên bơi qua được. Chạy đến sông Đăng Giang, sông có nhiều cá sấu, không thể bơi qua được, may lúc ấy có con trâu nước đang nằm bên bờ, Nguyễn Ánh cưỡi trâu sang sông. Qua được sông, Nguyễn Ánh đi [[Mỹ Tho (thành phố)|Mỹ Tho]] và dong thuyền đem theo mẹ và vợ con ra đảo [[Phú Quốc]].<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=192}}.</ref>
 
Cùng lúc, Nguyễn Ánh sai Tôn Thất Cốc và tướng quân [[Hòa Nghĩa]] là Trần Đĩnh trở về cửa biển Cần Giờ dò xét quân Tây Sơn. Vì Cốc có mâu thuẫn nên giết Đĩnh. Việc này khiến hai thuộc hạ [[Người Hoa (Việt Nam)|người Hoa]] của Đĩnh là Tổng binh Trần Hưng và Lâm Húc nổi dậy chiếm giữ [[Hà Tiên (thị xã)|Hà Tiên]] và chống Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh sai Nguyễn Kim Phẩm lấy lại Hà Tiên và cho Thái trưởng công chúa là Ngọc Đảo (con gái thứ bảy của chúa [[Nguyễn Phúc Khoát]], gả cho [[Trương Phước Nhạc]] là Cai cơ thuyền Nghi Giang) lo việc quân nhu. Trần Hưng dẫn quân đánh úp, giết chết Phẩm và công chúa. Nguyễn Ánh tức giận, tự mang quân đến đánh, phe Hưng thua chạy. Tướng Xiêm là Vinh Li Ma ở đảo Cổ Long mang hơn chục chiến thuyền và 200 quân tới Hà Tiên theo Nguyễn Ánh.<ref name="tt195" /> Có quân binh trong tay, Nguyễn Ánh cho tổ chức tầm 2-3 đợt cướp vùng Hà Tiên để kiếm khí giới và lương thực cho binh lính, nhưng cũng chính các hoạt động này khiến cho nơi trú ẩn của Nguyễn Ánh bị lộ.<ref name="harvnb13"/>
 
Tháng 6 âm lịch, khi Nguyễn Ánh lui ra đóng ở tại đảo Điệp Thạch ([[hòn Đá Chồng]]) thuộc Phú Quốc thì một thống suất của quân Tây Sơn là [[Phan Tuấn Thuận]] bất ngờ kéo quân ra truy kích, tình thế bức bách khiến tướng [[Lê Phước Điển]] phải dùng kế hy sinh. Ông này mặc áo ngự đóng giả Nguyễn Ánh khiến Tây Sơn bắt nhầm.<ref name="harvnb33" /><ref name="autogenerated7" /><ref name="autogenerated7" /><ref name="harvnb13">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=116-117}}.</ref><ref name="harvnb13" /><ref name="harvnb34">{{harvnb|Huỳnh Minh|2006|p=11}}.</ref> Nguyễn Ánh đi thuyền khác thoát chạy ra được [[đảo Côn Lôn]] trong khi các thuộc tướng khác đều bị Tây Sơn bắt và giết sau khi dụ hàng không được.<ref name="tt195" />
Hàng 169 ⟶ 121:
Tháng giêng âm lịch năm [[1784]], Chưởng cơ [[Hồ Văn Lân]] đem quân sở bộ tiến đến đồn Tinh Phụ. Tôn Thất Hội nghe tin có viện binh đến, trổ vòng vây mà ra, thẳng tới sông Tân Hòa, hợp với quân [[Lê Văn Quân]]. Phò mã Tây Sơn là [[Trương Văn Đa]] đuổi đánh. Các tướng của Nguyễn Ánh thua chạy và tan rã, còn Lê Văn Quân chạy sang Xiêm.<ref name="tt195"/>
 
Đến tháng 2 âm lịch năm [[Giáp Thìn]] (tháng 5 năm [[1784]]), vua Xiêm La là [[Rama I]] cho tướng Thát Xỉ Đa đem thuyền sang [[Hà Tiên (tỉnh)|Hà Tiên]] đón Nguyễn Ánh.<ref name="PK517">{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=517}}.</ref> Nguyễn Ánh, trước đó nhận được thư của Châu Văn Tiếp, tới [[Long Xuyên (huyện cũ)|Long Xuyên]] hội kiến tướng Xiêm rồi cùng 30 viên quan và mấy chục tướng sĩ theo sang Xiêm La hội kiến vua Xiêm tại Vọng Các ([[Bangkok]]) vào [[tháng ba|tháng 3]] năm [[1784]]<ref name="PK517" /> mà không màng việc thân tướng là [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] hết sức can ngăn việc cầu viện nước ngoài.<ref>{{harvnb|Huỳnh Minh|2006|p=143}}.</ref>
 
Trước khi đi Xiêm, Nguyễn Ánh cho người đưa mẹ và vợ sang đảo [[Thổ Châu]]. Các thuộc hạ cùng đi sang Xiêm với Nguyễn Ánh là Tôn Thất Hội, Trương Phước Giáo, Hồ Văn Bôi, Lưu Văn Trung, Nguyễn Văn Trị, Nguyễn Văn Huấn, Trần Văn Xạ, [[Thống chế Điều bát|Nguyễn Văn Tồn]] ([[Người Khmer (Việt Nam)|người Khmer]]),  Bùi Văn Khoan, Lê Thượng và Nội trù Nguyễn Văn Hội, hơn 30 người, quân theo cũng vài mươi người.<ref name="tt195">{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=195}}.</ref>
Hàng 188 ⟶ 140:
Trong tập Kỷ yếu Hội nghị khoa học lịch sử nhân kỷ niệm 200 năm ngày chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút tại Tiền Giang vào tháng 12-1984, trong đó bài tham luận của nhà sử học [[Phan Huy Lê]] đánh giá, nhận xét như sau:<ref>Kỷ yếu Hội nghị khoa học “Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút”, Tiền Giang, 1984, trang 300, 307, 320.</ref>
:''"Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Xiêm được bọn phong kiến phản bội Nguyễn Ánh tiếp tay, là cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc… Quân xâm lược lại được Nguyễn Ánh dẫn đường và được các thế lực phong kiến phản động bên trong, nhất là tầng lớp đại địa chủ ở Gia Định ủng hộ. Thế mà với chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút, quân Tây Sơn đã nghiền nát quân cướp nước và bán nước bằng một trận tiêu diệt sấm sét... Đó là một chiến công lớn, oanh liệt đầu tiên của nhân dân miền Nam, bất chấp những khó khăn, phức tạp của hoàn cảnh lịch sử và sự phản bội của bè lũ phong kiến trong nước."''
Các tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương chạy theo đường núi [[Chân Lạp]] mà về Xiêm. Nguyễn Ánh cùng Lê Văn Duyệt trốn đi [[Trấn Giang]] với vài chục người. Nguyễn Ánh sai Mạc Tử Sinh và Cai cơ Trung (cậu Châu Văn Tiếp) sang Xiêm trước báo tin, còn mình thì theo đường thủy qua đảo Thổ Châu<ref name="tt198">{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=198}}.</ref> rồi về Cổ Cốt với một nhóm nhỏ quân tướng.<ref name="autogenerated8" /> Thời gian này, cuộc sống của Nguyễn Ánh khốn khổ đến mức [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] phải đi làm ăn cướp nuôi chủ và bị đánh suýt mất mạng.<ref>Nguyễn Khắc Thuần (2005), Danh tướng Việt Nam, tập 3, Việt Nam: Nhà Xuất bản Giáo dục, tr. 195</ref>
 
Tháng 3 âm lịch năm [[1785]], quân Tây Sơn đuổi tới đảo Thổ Châu, Nguyễn Ánh chạy sang đảo Cổ Cốt, Cai cơ tên Trung đem binh Xiêm đến đưa Nguyễn Ánh về [[Băng Cốc|Vọng Các]], Xiêm La.<ref name="autogenerated8">{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=518}}.</ref><ref name="tt198"/> Tháng 4 âm lịch năm [[1785]], Nguyễn Ánh tới Xiêm, được vua Xiêm cho trú tại khu vực [[Samsen]] và [[Bangpho]] (trong tiếng Việt gọi là Đồng Khoai hoặc Long Kỳ, hiện nay đều thuộc nội thành [[Bangkok]]), tháng 5, Lê Văn Quân mang hơn 600 quân sang Xiêm hội quân với Nguyễn Ánh.<ref name="tt198"/> Binh tướng từ Gia Định nghe tin kéo sang và lực lượng của ông tụ tập lại được khoảng 1000 người.<ref name="Goscha2013">{{chú thích sách|author=Christopher E. Goscha|title=Thailand and the Southeast Asian Networks of The Vietnamese Revolution 1885-1954|url=http://books.google.com/books?id=EYInAAAAQBAJ&pg=PA16|date=ngày 5 tháng 9 năm 2013|publisher=Routledge|isbn=978-1-136-10682-8|pages=16}}</ref> Khi ở Xiêm, người Xiêm gọi Nguyễn Ánh là ''Ong Chiang Su'' (องเชียงสือ, Chiang Sue) tức Ông Thượng Sư, sau này nhiều tài liệu khác của Thái Lan cũng hay đề cập tới Nguyễn Ánh với tên này.<ref>TS Nguyễn Mạnh Dũng, Xu hướng chính trị - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX nhìn từ cuộc tiếp xúc Việt Nam với nước ngoài, Nghiên cứu Lịch sử, Viện Sử học, Số 2/2013, tr. 20.</ref><ref name="Munro-Hay2001">{{chú thích sách|author=Stuart C. Munro-Hay|title=Nakhon Sri Thammarat: The Archeology, History and Legends of a Southern Thai Town|url=http://books.google.com/books?id=IrNuAAAAMAAJ|year=2001|publisher=White Lotus Press|isbn=978-974-7534-73-3|page=122}}</ref><ref>{{chú thích sách|title=Journal of the Siam Society|url=http://books.google.com/books?id=j8kVAQAAIAAJ|year=2000|page=2}}</ref>
Hàng 197 ⟶ 149:
Sau một năm chuẩn bị, [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1784]]<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=178}}.</ref> Giám mục Bá Đa Lộc cùng [[Nguyễn Phúc Cảnh]] và phái đoàn đem quốc thư của Nguyễn Ánh xuống thuyền đi [[Melaka|Malacca]] rồi sang [[Puducherry|Pondichéry]] ở [[Ấn Độ]] (thuộc Pháp), còn Nguyễn Ánh đưa mẹ và vợ sang trú ở Long Kì (hay Đồng Khoai, [[Bangkok|Vọng Các]]).<ref>{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=111}}.</ref>
 
Với số binh tướng từ [[Đại Việt]] mà Nguyễn Ánh thu nhặt được, ông cho tổ chức lại binh tướng trên đất Xiêm rồi lâu lâu cho quân đột kích về Gia Định.<ref name="autogenerated8" /> Tháng 2 năm [[1786]], Nguyễn Ánh cùng tướng [[Lê Văn Quân]] và [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] giúp vua Xiêm [[Rama I]] đánh quân [[Myanmar|Miến Điện]] ở đất Sài Nặc. Vua Xiêm cảm tạ, định lại cho mượn quân sang đánh lấy lại Gia Định nhưng Nguyễn Văn Thành can ngăn nên Nguyễn Ánh từ chối.<ref name="auto6">{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=200}}.</ref> Tháng 3 năm [[1786]], Lê Văn Quân lại giúp Xiêm đánh quân hải tặc [[Mã Lai]], nên Xiêm La rất hậu đãi.<ref name="auto6"/><ref>{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=145-146}}.</ref>
 
Đầu năm [[1787]], có người [[Bồ Đào Nha]] tên ĂngĂn Tôn Nui đến gặp Nguyễn Ánh dâng quốc thư và nói rằng Hoàng tử Cảnh có nhờ nước Bồ Đào Nha giúp, đã chuẩn bị được 56 tàu chiến ở [[Goa]], mời Nguyễn Ánh sang đất thuộc địa của Bồ Đào Nha. Nguyễn Ánh có cử sứ giả đi thăm dò nhưng do thấy vua Xiêm không hài lòng nên rốt cục không hợp tác.<ref name="auto7">{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=202}}.</ref><ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=180-181}}.</ref><ref>{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=146-147}}.</ref>
 
===Cầu viện Pháp===
Hàng 208 ⟶ 160:
Các sử gia về sau cho rằng tuy là ký kết dưới danh nghĩa Nguyễn Ánh, nhưng người chịu trách nhiệm về việc soạn ra các điều khoản đặc biệt có lợi cho phía [[Pháp]] trong hiệp ước này có thể là Giám mục [[Bá Đa Lộc]] chứ không phải là chính bản thân Nguyễn Ánh; nếu không có lệnh đình chỉ việc thực thi điều ước thì khi trao đổi văn kiện chưa chắc Nguyễn Ánh đã chịu chấp nhận một hiệp ước bất bình đẳng như thế này.<ref name="nvk"/> Nhưng dù như thế nào, [[Hiệp ước Versailles (1787)|Hiệp ước Versailles năm 1787]] đã không thành hiện thực (do cuộc [[Cách mạng Pháp]] năm [[1789]] đã lật đổ Hoàng gia Pháp).<ref name="Nguyễn Quang Trung Tiến">{{harvnb|Nguyễn Quang Trung Tiến|1999}}.</ref>
 
Tuy nhiên Hiệp ước Versailles vẫn trở thành một di họa đối với [[Việt Nam]]. Về sau, Pháp đã dựa vào hiệp ước này để làm cớ yêu cầu [[nhà Nguyễn]] cắt đất, và sau đó xâm lược Việt Nam vào năm [[1858]]. Giáo sư [[Trần Văn Giàu]] nhận xét:<ref>[{{Chú thích web |url=http://tuanbaovannghetphcm.vn/luan-ve-nhung-nguyen-nhan-viet-nam-mat-nuoc-ve-tay-phap/ |ngày truy cập=2023-01-09 |tựa đề=Luận về những nguyên nhân Việt Nam mất nước về tay Pháp] |archive-date=2017-10-02 |archive-url=https://web.archive.org/web/20171002215439/http://tuanbaovannghetphcm.vn/luan-ve-nhung-nguyen-nhan-viet-nam-mat-nuoc-ve-tay-phap/ |url-status=dead }}</ref>
:''...đúng là sĩ quan Pháp đã giúp nhiều cho Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn. Cho nên trong triều đình [[Huế]], đến khi Gia Long lên ngôi, vẫn còn thấy mấy quan đại thần mắt xanh tóc đỏ. Khỏi phải nói trắng ra, các quan đại thần đó như Dayot, Chaigneau, Vannier… đều là tai mắt của [[Paris]]. Còn Paris thì các nhà cầm quyền từ Đệ nhất Đế chế đến Đệ tam Cộng hòa đều không lúc nào quên Hiệp ước Versailles 1787. Paris luôn nhắc nhở Huế cái hiệp ước “trời cho” ấy bằng đường ngoại giao và bằng đại bác của chiến hạm bắn lên [[Đà Nẵng]]. Cầu viện Pháp, Hiệp ước Versailles đã tạo thành một “nghiệp chướng” cho triều đình Nguyễn.''
 
Sau này tác giả Faure chép truyện Bá Đa Lộc, có nuối tiếc rằng nếu Hiệp ước được Pháp thực hiện thì quân Pháp có thể chiếm được Việt Nam sớm hơn mấy chục năm:
:''“Nếu lúc ấy Chính phủ Pháp sẵn sàng giúp ông Bá Đa Lộc thì ông ấy đã giúp cho nước Pháp hoàn thành cuộc bảo hộ ở [[An Nam]] ngay từ cuối thế kỷ 18, để sau khỏi phải dùng đến chiến sự mới xong công việc”''.<ref>[{{Chú thích web |url=http://www.vusta.vn/vi/news/Thong-tin-Su-kien-Thanh-tuu-KH-CN/Thomas-De-Conway-va-Hiep-uoc-Versailles-1787-26081.html |ngày truy cập=2018-08-27 |tựa đề=Thomas De Conway và Hiệp ước Versailles 1787] |archive-date = ngày 27 tháng 8 năm 2018 |archive-url=https://web.archive.org/web/20180827110350/http://www.vusta.vn/vi/news/Thong-tin-Su-kien-Thanh-tuu-KH-CN/Thomas-De-Conway-va-Hiep-uoc-Versailles-1787-26081.html }}</ref>
 
==Về nước và củng cố thế lực==
===Chiếm lại Gia Định===
[[HìnhTập tin:Miếu Gia Long.jpg|nhỏ|240px|[[Miếu Gia Long]] ở khu vực Nước Xoáy, nơi ông đóng quân sau khi về lại Nam Hà từ Xiêm La.]]
 
Sau 3 năm lưu vong ở Xiêm, Nguyễn Ánh thấy vua Xiêm [[Rama I]] ngày càng tỏ ra không vừa lòng vì lực lượng quân Nguyễn trở nên quá mạnh, ông viết thư cảm ơn rồi ban đêm lặng lẽ trở về vùng Gia Định.<ref name="harvnb35">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=279}}.</ref><ref name=autogenerated6>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=519}}.</ref> Ngoài ra, cũng do khi này nội bộ Tây Sơn xảy ra tranh chấp giữa anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ khiến việc phòng bị ở Gia Định bị lỏng lẻo.
Hàng 251 ⟶ 203:
==Cai trị vùng Gia Định==
===Tổ chức chính quyền và kinh tế===
Khi vừa chiếm lại Gia Định, ông bắt đầu tổ chức lại chính quyền bằng cách lựa các viên tham mưu quân đội chuyển qua các bộ lập thành một triều đình, đồng thời cho tăng cường phát triển giáo dục, mở khoa thi,<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=529-530}}.</ref> thu dùng các nhân sĩ [[người Việt]] và [[Minh Hương]] đã theo ông trước đó.<ref name="harvnb31"/> Ngoài ra, nhiều sĩ phu lục tục ra giúp Nguyễn Ánh, trong đó nổi bật nhất là nhóm học trò của nhà nho [[Võ Trường Toản]].<ref name="Vo2011"/> Năm [[1788]], Nguyễn Ánh cho lập kho Bốn Trấn{{ref_labelefn|cĐây là nền kho Gian Thảo cũ (hiện tại nằm ở chợ Cầu Kho, Thành phố Hồ Chí Minh). Xem tại {{harvnb|cSơn Nam|none2009|p=55}}.}} làm kho chung cho các trấn [[Phiên An (trấn)|Phiên An]], [[Biên Hòa (trấn)|Biên Hòa]], [[Vĩnh Thanh (trấn)|Vĩnh Thanh]], và [[Định Tường (trấn)|Định Tường]] để thu thuế và làm ngân quỹ cấp lương bổng cho quan lại.<ref name="sn11">{{harvnb|Sơn Nam|2009|p=55}}.</ref> Đến tháng 6 năm [[1789]], ông đưa ra chính sách lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng trên cơ sở số lớn đất đai phì nhiêu nhưng lại bị bỏ hoang nhiều vì cộng đồng di dân chưa định hình và chiến tranh liên miên ở vùng Gia Định.<ref name="McLeod 1991 9">{{harvnb|McLeod|1991|p=9}}.</ref><ref name="sn11"/> Nguyễn Ánh cho đặt nhóm quan điền toán gồm 12 người (một số vị nổi bật là [[Trịnh Hoài Đức]], [[Lê Quang Định]], [[Ngô Tùng Châu|Ngô Tòng Châu]], [[Hoàng Minh Khánh]]) để đi bốn dinh miền Nam là Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định đốc thúc nhân dân làm việc nông nghiệp, phàm ai lười biếng sẽ bị bắt sung quân.<ref>{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|p=149}}.</ref> Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn đề ra chính sách là nếu người hoặc nhóm người làm ruộng đất tốt thu trên 100 thùng lúa, còn ruộng đất xấu thu trên 70 thùng lúa thì sẽ được thưởng như sau: dân thường sẽ được miễn việc xâu (những việc quan lại cần nhân công địa phương làm như đào kênh, đắp thành) một năm; phủ binh thì sẽ được miễn đi đánh nhau một năm.<ref name="sn11"/> Những người dân lậu (người không ở trong sổ bộ quản lý của địa phương) cũng có thể làm ruộng dưới sự quản lý của quan điền toán và được xem như là một người lính; nếu như họ thiếu vốn thì cũng có thể được cho vay trả sau.<ref name="sn11"/> Từ tháng 10 năm [[1790]], binh lính cũng được huy động vào việc sản xuất nông nghiệp khi phép [[Ngụ binh ư nông]] được thi hành.<ref name="sn11"/><ref name="harvnb38">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=280}}.</ref> Binh lính được khuyến khích cày cấy để tận dụng các mảnh đất bị bỏ hoang vì chiến tranh.<ref>{{harvnb|Sơn Nam|2009|pp=55-56}}.</ref> Nhóm Trung Quân và các nhóm thủy quân được cử đến khai thác vùng Thảo Mộc Câu (sông [[Vàm Cỏ]] ngày nay) lập ra trại Đồn Điền dưới sự chỉ huy của Chánh cơ Nguyễn Bình. Trại này được nhà nước trợ cấp dụng cụ và giống cây, phần thu hoạch được sẽ sung vào kho công.<ref name="sn56">{{harvnb|Sơn Nam|2009|pp=56}}.</ref> Các quan địa phương khác cũng phải lập đội đồn điền và nộp thuế theo hạn mức 6 [[hộc]] [[lúa]] mỗi người trong đội; bất cứ ai tuyển được 10 người trở lên sẽ được làm quan quản trại và trừ tên trong sổ làng (tức là khỏi đi lính).<ref name="sn56"/> Số lúa gạo thu được từ các đồn điền này được giữ trong một kho gọi là kho Tích Trữ (về sau đổi thành ''kho Đồn Điền'' hay ''Đồn Điền khố'' theo âm Hán-Việt).<ref name="harvnb788">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=224}}.</ref><ref name=vnsl50>{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|p=150}}.</ref>
 
Để có thêm lúa gạo phục vụ chiến tranh, Nguyễn Ánh cho đặt thêm thuế phụ ngoài thuế ruộng (thuế điền), một năm hai kỳ thu là ''thuế thị túc'' và ''thuế thị nạp''. Mức thu như sau:<ref name="sn56"/>
Hàng 286 ⟶ 238:
Có nguyên liệu rồi, Nguyễn Ánh ra sức đốc thúc đóng tàu: năm [[1789]] ông đóng được 40 chiếc thuyền và 100 chiếc thuyền biển; hai năm sau đóng thêm được 100 chiếc với gỗ ván lấy từ rừng Quang Hóa và rừng [[Chân Lạp]]. Đến năm [[1793]], Nguyễn Ánh cho mua hẳn một chiến hạm cũ của [[Châu Âu]] rồi sai người gỡ ra để sao chép lại.<ref name="tnqt141142"/> Nguyễn Ánh đích thân giám sát việc đóng những chiếc thuyền theo kiểu này.<ref name="tnqt141142"/> Nhờ tích cực vậy nên ngay cùng năm, quân Nguyễn đóng được những chiến hạm nổi tiếng là Long Ngư, Long Thượng, Long Hưng, Long Phi, Bằng Phi, Phụng Phi, Hồng Nhi, Loan Nhi, Ưng Nhi (trong này quan trọng nhất là ba chiếc Long Phi được trang bị đến 32 khẩu đại bác, Phụng Phi và Bằng Phi có 26 khẩu) với sức chứa trên 300 người mỗi thuyền.<ref name="tnqt141142">{{harvnb|Tôn Nữ Quỳnh Trân|2013|pp=141-142}}.</ref> Những năm tiếp theo, Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục kiên nhẫn cho đóng thêm thuyền như năm [[1796]] cho đóng thêm 15 chiến hạm hiệu là "Gia" và xếp theo [[tam tài]] cùng [[can chi|thập nhị chi]]: Thiên, Địa, Nhân, Tý, Sửu, Dần, Mão... cho đến Tuất, Hợi là đủ 15 chiếc.<ref name="tnqt141142"/> Đến năm [[1800]], cho đóng thêm 15 chiếc thuyền biển nữa và [[1801]] thì có thêm 200 hạm có tên là Anh, Vũ, Thước, Nga, Quyên, Phu, Lệ, Diên, Chiêu, Ly.<ref name="tnqt141142"/> Nhờ tích cực vậy, có khi mỗi 2 năm mà Nguyễn Ánh đóng thêm gần được 300 [[tàu pháo|pháo hạm]] và 10 năm thì tổng số thuyền của Nguyễn Ánh lên được gần 1.200 chiếc.<ref name="tnqt141142"/>
 
Các chính sách phát triển kinh tế-quân sự này đã giúp rất lớn cho quân đội của Nguyễn Ánh, ông đã phát triển lên được một đội quân có thể cạnh tranh nổi với Tây Sơn: theo [[John Barrow]], một quý tộc người Anh du lịch nhiều nơi và là kiểm toán viên tòa Đại sứ Anh Quốc tại [[Trung Quốc]] năm [[1793]], thì quân số của Gia Định đầu [[thế kỷ XIX]] lên tới 139.800 người.<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=229-230}}.</ref> Thủy binh của Nguyễn Ánh cũng trở nên hùng mạnh và có ưu thế hơn hẳn so với thủy binh của Tây Sơn,<ref>{{Chú thích web | url = http://ivides.vnu.edu.vn/Print.aspx?Culture=vi-VN&q=749 | tiêu đề = Sự nghiệp lẫy lừng trên biển của vua Gia Long | tác giả 1 = GS-TS Nguyễn Quang Ngọc | ngày = 16 tháng 10 năm 2011 | ngày truy cập = 28 tháng 022 năm 2014 | nơi xuất bản = Đại học Quốc gia Hà Nội | ngôn ngữ = tiếngvi Việt| archive-date = ngày 5 tháng 3 năm 2014 | archive-url = https://web.archive.org/web/20140305153151/http://ivides.vnu.edu.vn/Print.aspx?Culture=vi-VN&q=749 }}</ref> chính điều này đã giúp Nguyễn Ánh có khả năng vượt biển đánh thẳng vào cảng Quy Nhơn của Tây Sơn các năm [[1790]], [[1797]], [[1798]]; và [[Nha Trang]] vào năm [[1793]], với trận quyết định tại [[Trận Thị Nại (1801)|Thị Nại năm 1801]].<ref name="tnqt141142"/> Cho đến khi kết thúc chiến tranh, Nguyễn Ánh có một số thuyền hùng hậu lên tới 100 chiến hạm, 800 pháo hạm và 500 bán pháo hạm.<ref name="tnqt141142"/>
 
Tới lúc này, đối với nước [[Pháp]], Nguyễn Ánh bắt đầu tìm đối sách về mặt ngoại giao: khoảng năm [[1790]], ông viết quốc thư với đại ý "cảm ơn nước Pháp", nhưng ông không còn cần họ giúp theo [[hiệp ước Versailles (1787)|hiệp ước Versailles năm 1787]] đã ký trước đây nữa.<ref>{{harvnb|Phạm Văn Sơn|2013|p=116}}.</ref> Đồng thời với việc trên là công cuộc giao thiệp với ba nước lớn [[Xiêm|Xiêm La]], [[Chân Lạp]], [[Vạn Tượng]]: ông cho quân chiếm đóng Chân Lạp, giữ quan hệ hòa hiếu với Xiêm La để yên ổn với Vạn Tượng (khi này trong tầm khống chế của Xiêm La), ngoài ra còn có quan hệ với một ít quốc gia nhỏ khác.<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=530-534}}.</ref> Kết quả là cả ba quốc gia lớn đều có sự giúp đỡ ít nhiều cho Nguyễn Ánh trong cuộc chiến của mình.<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=531}}.</ref>
Hàng 293 ⟶ 245:
 
===Thuế khóa và lao dịch===
Để có chi phí cho các hoạt động quân sự chống lại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh áp mức thuế và lao dịch rất nặng lên người dân. Theo ý kiến của một nhà nghiên cứu phương Tây hiện đại là [[Georges Dutton]]<ref>Georges Dutton là Phó Giáo sư (''Assistant Professor'') khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Á châu, đồng thời là Giám đốc Chương trình Liên khoa Đông Nam Á Học của [[Đại học California tại Los Angeles]] (UCLA).</ref>, người dân vùng Gia Định dưới sự cai trị của Nguyễn Ánh trong thời kỳ này phải chịu mức thuế khóa và lao dịch rất nặng, khiến họ trở nên chán ghét Nguyễn Ánh<ref name="HL">George Dutton (Nguyệt Cầm chuyển ngữ), ''[http://www.hopluu.net/HL82/NGUYETCAM-GEORGEDUTTON.htm Xem xét lại thời Tây Sơn] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20080617211459/http://www.hopluu.net/HL82/NGUYETCAM-GEORGEDUTTON.htm |date = ngày 17 tháng 6 năm 2008}}'', tạp chí Hợp Lưu, Số 82, Tháng 4-2005 và 5- 2005, tr. 244.</ref>
:''"...Những người dân đang sống dưới quyền kiểm soát chính trị của chính thế lực [[nhà Nguyễn]] ở sâu trong miền nam... mong đợi được giải thoát khỏi họ. Đến cả [[Pigneau de Behaine]] (Bá Đa Lộc), ủng hộ viên người Âu nhiệt tình nhất của Nguyễn Ánh, vào năm [[1791]], cũng đề cập đến điều này, khi ông viết về tình cảnh ngày càng không chịu đựng nổi của những người dân Việt sống trong vùng nhà Nguyễn kiểm soát."''
:''"... sau đó (khi họ Nguyễn lại kiểm soát Nam Bộ), hoàn cảnh sống của người dân dưới chính thể nhà Nguyễn vẫn chẳng hề được cải thiện; điều này được mô tả trong thư của một nhà truyền giáo người Pháp khác, rằng "hai năm vừa qua, mọi người đều phải đi làm việc công ích, và [người ta] không bận tâm với bất kì điều gì khác ngoài việc tìm cách để sống sót, đau khổ đã trở nên đến cực điểm"."''
Hàng 304 ⟶ 256:
{{xem thêm|Trận Thị Nại (1792)}}
[[Tập tin:Lược đồ vùng kiểm soát các phe năm 1790 trong cuộc nội chiến tại Đại Việt.svg|thumb|324x324px|trái|Lược đồ vùng kiểm soát của Nguyễn Ánh (<span style="color:yellow;">màu Vàng</span>) và Tây Sơn (<span style="color:red;">màu Đỏ</span> - <span style="color:orange;">màu Cam</span>) khoảng năm [[1788]].]]
Tháng 4 âm lịch năm [[1790]], Nguyễn Ánh sai [[Lê Văn Quân]] mang 6.000 quân thủy bộ ra đánh chiếm được [[Phan Rí Cửa|Phan Rí]] và [[Bình Thuận]].<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=231}}.</ref> Sau đó, Lê Văn Quân đóng giữ [[Phan Rang - Tháp Chàm|Phan Rang]], Nguyễn Văn Thành giữ Chợ Mơ (Mai Thị), Võ Tánh giữ Phan Rí. Nguyễn Ánh sau đó gọi Nguyễn Văn Thánh và Võ Tánh rút binh về. Tháng 6 âm lịch năm [[1790]], Đô đốc Tây Sơn là Hồ Văn Tự mang hơn 9.000 quân vây đánh Phan Rang, Lê Văn Quân phải về Ỷ Na cố thủ, cầu cứu Nguyễn Ánh. Tháng 7 cùng năm, quân Tây Sơn bao vây Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Thành trong thành Phan Rí, Nguyễn Ánh lệnh cho [[Nguyễn Huỳnh Đức]] và Võ Tánh giải cứu. Sợ Tây Sơn lại đánh Bình Thuận, Nguyễn Ánh cho rút quân về Gia Định, cho Lê Văn Quân về giữ Hưng Phước.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|pp=233-235}}.</ref>
 
Đến năm [[1792]], Quang Trung sai cướp biển Tề Ngôi quấy phá vùng biển Bình Khang, Bình Thuận để quân Nguyễn Ánh phải phòng bị. Tháng 6 năm 1792, Nguyễn Ánh dò biết Nguyễn Nhạc tập trung nhiều chiến thuyền ở của biển Thị Nại mà ít phòng bị, liền lợi dụng mùa gió Nam, ông cho hai tướng [[Nguyễn Văn Trương]], [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] và hai sĩ quan đánh thuê người Pháp là [[Jean-Marie Dayot|Dayot]] và [[Philippe Vannier|Vannier]] đi trước, tiến quân đánh và đốt phá thủy trại Tây Sơn tại [[Thị Nại]] rồi rút về,<ref>{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=153}}.</ref> tháng 7 thì Nguyễn Ánh lại đến đóng ở Phan Rang,<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|pp257pp=257-258}}.</ref> sau lại về Gia Định.
 
Sau khi chiến thắng quân Thanh, vua [[Nguyễn Huệ|Quang Trung]] chuẩn bị phối hợp với Nguyễn Nhạc đem quân vào Nam đánh Gia Định nhằm triệt để đánh bại thế lực của Nguyễn Ánh, thu phục miền Nam bộ và thống nhất đất nước. Quang Trung dự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn 20<ref>{{harvnb|Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng|1976|p=323}}.</ref>-30 vạn<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=258}}.</ref> quân thủy bộ, chia làm ba đường. Chính các [[giáo sĩ]] Pháp giúp Nguyễn Ánh lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Nguyễn Ánh khó lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Trong thư gửi cho M. Létondal ngày 14/9/1791, giám mục Bá Đa Lộc viết:
:''“… Nhà vua đã không biết lợi dụng cơ hội mà ông ta có được để đánh bại kẻ thù, mà lại để chúng có thì giờ hoàn hồn và chúng thấy rõ tất cả những đồn đại về việc người Âu đến giúp chỉ là chuyện hão. Ông ta (Nguyễn Ánh) bắt dân đóng thuế và làm dịch vụ nặng nề, và lúc này, dân chúng bị nạn đói đe dọa nên họ có vẻ mong quân Tây Sơn đến. Trong tình trạng hiện thời, nếu chúng quả quyết đến tấn công, thì nhà vua khó có thể đương đầu lại được... Tôi rất sợ không đi kịp trước khi tai họa xảy ra cho nhà vua, nếu có sự ấy"''.<ref name="Tạ Chí Đại Trường 1973 261"/>
 
Tuy nhiên vận may lại đến với Nguyễn Ánh khi vua [[Quang Trung]] đột ngột qua đời ([[1792]]), con là [[Nguyễn Quang Toản]] còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, hiệu là Cảnh Thịnh. Quang Toản còn quá nhỏ (9 tuổi) nên không đủ sức lãnh đạo, khiến cho Tây Sơn bắt đầu khủng hoảng và chia rẽ.<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=276-277}}.</ref> Loạn lạc liền nổ ra ở Bắc Hà: sĩ phu trung thành với [[nhà Lê]] nổi lên tôn [[Lê Duy Cận]] ([[Đại Nam thực lục|Thực lục]] ghi là Lê Duy Vạn, con [[Lê Hiển Tông]]) làm minh chủ, Duy Cận liên lạc với Nguyễn Ánh để cùng đánh Tây Sơn,<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=535}}.</ref> việc này góp phần làm cho [[nhà Tây Sơn]] nhanh chóng suy yếu. Nội bộ Tây Sơn xảy ra tranh chấp, quyền hành rơi vào tay ngoại thích [[Bùi Đắc Tuyên]].<ref name="harvnb24">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=155}}.</ref> Nguyễn Nhạc lại nghi ngờ Quang Toản, càng tạo thuận lợi cho Nguyễn Ánh.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=261}}.</ref> Nhân vào thế đó, Nguyễn Ánh ra sức mở các đợt tấn công ra [[Quy Nhơn]] theo nguyên tắc đã định trước đó: ''"Gặp nồm thuật thì tiến, vãn thì về, khi phát thì quân lính đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng".''<ref>{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|pp=280-281}}.</ref>
 
Dân chúng vùng miền Trung khi này, sau nhiều năm mệt mỏi bởi chiến sự liên tục, nay lại thấy vua Quang Trung mất đột ngột, nhà Tây Sơn bị lục đục nội bộ nên cũng mâu thuẫn trong việc nên ủng hộ Nguyễn Ánh hay Tây Sơn. Một số quay sang ủng hộ Nguyễn Ánh, trong dân gian lưu truyền một câu ca dao [[Thơ#Lục bát|lục bát]]: ''"Lạy trời cho cả gió nồm,/Để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra".''<ref>{{harvnb|Lưỡng Kim Thành|2012|p=83}}.</ref> Số khác thì vẫn ủng hộ nhà Tây Sơn, thể hiện qua câu ca dao: ''"Lạy trời cho cả gió lên,/Cho cờ vua Định phất trên kinh thành"'' (Định ở đây là [[Bình Định]], nơi phát tích nhà Tây Sơn, và kinh thành ở đây là [[Phú Xuân]] - [[Huế]]). Việc tồn tại 2 câu ca dao trái ngược nhau cho thấy lòng dân khi đó khá mâu thuẫn về việc nên ủng hộ bên nào<ref>{{Chú thích web |url=http://www.dl.ueb.vnu.edu.vn/bitstream/1247/11722/2/Quan%20diem%20ve%20Nguyen%20Anh%20va%20trieu%20Nguyen.docx |ngày truy cập=2019-01-09 |tựa đề=Bản sao đã lưu trữ |archive-date = ngày 9 tháng 1 năm 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20190109204928/http://www.dl.ueb.vnu.edu.vn/bitstream/1247/11722/2/Quan%20diem%20ve%20Nguyen%20Anh%20va%20trieu%20Nguyen.docx }}</ref>.
 
===Chiến trận giằng co===
Tháng 4 âm lịch năm [[1793]], Nguyễn Ánh cùng các tướng [[Võ Di Nguy|Võ Duy Nguy]], [[Nguyễn Văn Trương]], [[Võ Tánh]], [[Nguyễn Huỳnh Đức]], [[Lê Văn Duyệt]], [[Nguyễn Phước Hội]], [[Philippe Vannier]], [[Nguyễn Văn Hòa]], [[Chưởng cơ Cố]]<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=539}}.</ref> đem đại quân tiến đánh, lần lượt chiếm được [[Phan Rang - Tháp Chàm|Phan Rang]], [[Nha Trang]], [[Diên Khánh]], [[Phú Yên]] rồi tranh thủ đánh Thị Nại, tới tận thành [[Quy Nhơn]] của [[Nguyễn Nhạc]].<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=263-264}}.</ref> Nguyễn Nhạc cho con là [[Nguyễn Văn Bảo]] ra chống giữ<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|pp=265-266}}.</ref> và cầu cứu [[Cố đô Huế|Phú Xuân]].
 
Tháng 8 âm lịch năm [[1793]], Quang Toản sai [[Ngô Văn Sở]], [[Phạm Công Hưng]], Đô đốc Hố và [[Chưởng cơ Thiêm]] ([[Đại Nam thực lục|Thực lục]] ghi là Thái úy Nguyễn Văn Hưng, Hộ giá Nguyễn Văn Huấn, Tư lệ Lê Trung, Tư mã Ngô Văn Sở, Đô đốc Hố và Chưởng cơ Thiêm)<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=268}}.</ref> đem 17.000 quân, 80 [[voi|thớt voi]] và 30 chiếc thuyền chia nhiều đường tiến vào cứu, quân Nguyễn Ánh rút lui.<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=541}}.</ref><ref>{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=153-154}}.</ref> Trên đường về Gia Định, Nguyễn Ánh sai quân đắp [[thành cổ Diên Khánh|thành Diên Khánh]] để [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] giữ, còn Bình Khang để [[Nguyễn Huỳnh Đức]] giữ. Đến tháng 11 âm lịch năm [[1793]], Nguyễn Ánh lại sai con là Đông cung [[Nguyễn Phúc Cảnh|Thái tử Cảnh]] ra giữ Diên Khánh, gọi Thành và Đức về.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|pp=271-273}}.</ref> Cùng thời gian, quân Phú Xuân của Tây Sơn nhân dịp đánh chiếm luôn đất đai, kho tàng của Nguyễn Nhạc ở thành Quy Nhơn. Lúc đó Nguyễn Nhạc đang bệnh trên giường, nghe tin tài sản của con mình là [[Nguyễn Văn Bảo|Quang Bảo]] bị chiếm mất, uất quá thổ huyết mà qua đời.<ref name="harvnb25">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=154-155}}.</ref><ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|pp=541-542}}.</ref> Quang Toản cho an trí [[Nguyễn Văn Bảo|Quang Bảo]] ra huyện [[Phù Ly]], còn mình thì cai quản luôn toàn bộ đất đai của vua bác.<ref name="harvnb25" />
[[Tập tin:Dien Khanh front gate.JPG|nhỏ|240px|Cửa [[thành cổ Diên Khánh|tòa thành Diên Khánh]], xây bởi [[Olivier de Puymanel]] sau khi quân Nguyễn chiếm được vùng này năm [[1793]].]]
Cũng trong thời gian này, Nguyễn Ánh sử dụng mối quan hệ hữu hảo của mình với vua Xiêm để mở thêm một cánh quân từ phía Tây: Nguyễn Ánh yêu cầu vua Xiêm cho [[Thoại Ngọc Hầu|Nguyễn Văn Thoại]] (vốn đang đi sứ ở Bangkok) sang [[Vương quốc Viêng Chăn|Vạn Tượng]] nhằm cùng với nước này phối hợp đánh Tây Sơn và vua Xiêm đồng ý.<ref name="NgaosīvatNgaosyvathn1998"/> Đến khoảng năm [[1793]], vua Xiêm cho phép Nguyễn Ánh đưa quân vào Vạn Tượng để tạo thêm nghi binh áp lực đối với khu vực trấn Nghệ An của Tây Sơn.<ref name="NgaosīvatNgaosyvathn1998"/> Thời gian sau, tướng Nguyễn Văn Thoại cùng với vua Vạn Tượng [[Inthavong]] (Chiêu Ấn trong tiếng Việt) đã rất thành công trong kế hoạch quấy rối Tây Sơn từ phía Tây (tuy nhiên việc này cũng khiến Xiêm trở nên nghi ngờ mối quan hệ Vạn Tượng-Nguyễn Ánh).<ref name="NgaosīvatNgaosyvathn1998">{{harvnb|Mayurī Ngaosīvat & Pheuiphanh Ngaosyvathn|1998|p=101-102}}</ref>.
 
Tháng 3 âm lịch năm [[1794]], Quang Toản sai [[Phạm Công Hưng|Phạm Văn Hưng]] và [[Trần Quang Diệu]] vào Quy Nhơn. Quân Nguyễn ban đầu gặp Tây Sơn là rút chạy khiến cho Tây Sơn tiến quân nhanh chóng: Tây Sơn đánh được tới tận vùng [[Ba Ngòi]], [[Khánh Hòa]] và sau đó là thủy bộ phối hợp vây thành Diên Khánh (khi này do [[Nguyễn Phúc Cảnh]] và [[Bá Đa Lộc]] trấn giữ).<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=278-279}}.</ref> [[Phạm Công Hưng|Nguyễn Văn Hưng]] dẫn hơn 40.000 quân bộ tiến đánh [[Phú Yên]], Trần Quang Diệu mang thủy quân đánh [[Nha Trang]].<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|pp276pp=276-277}}.</ref> Dựa vào thế thành kiểu mới vững chãi và việc Tây Sơn không có vũ khí công thành hiệu quả, quân Nguyễn thực hiện nội công ngoại kích khiến cho Tây Sơn bị tiêu hao nhiều sinh lực và buộc họ phải rút lui vào ngày [[23 tháng 5]].<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=279-280}}.</ref> Thấy thế, Nguyễn Ánh liền cho quân đuổi theo truy kích tới tận đầm Thị Nại, nơi thủy binh của ông chiếm ưu thế và dồn ép mạnh quân Tây Sơn. Ngoài ra, một số cánh quân Nguyễn khác gồm cả thủy lẫn bộ đánh trận ở nhiều nơi, trong đó họ thắng vài trận quan trọng ở [[núi Chúa]] (nay thuộc [[Ninh Thuận]]) và [[Đại Cổ Lũy]] ([[Quảng Ngãi]]) nhưng chẳng thể giữ lâu vì sức của quân Tây Sơn vẫn còn mạnh.<ref>{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=280-281}}.</ref>
 
Tháng 8 âm lịch năm [[1794]], Nguyễn Ánh cho Thái tử Cảnh về Gia Định, tháng 9, Nguyễn Ánh cũng về Gia Định, để một mình [[Võ Tánh]] ở lại giữ Diên Khánh.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|pp=280}}.</ref> Tháng 11 âm lịch năm [[1794]], [[Trần Quang Diệu]] kéo quân bao vây thành Diên Khánh còn Lê Trung cắt đường tiếp viện cho Võ Tánh tại Bình Thuận.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=283}}.</ref> Đến năm [[1795]], Tây Sơn phản công, họ cho quân nhiều lần vào đánh [[Phú Yên]], vây [[thành cổ Diên Khánh|thành Diên Khánh]] lần nữa, và còn tìm cách mua chuộc Xiêm La với mục đích cô lập Nguyễn Ánh.<ref name="harvnb24"/> Tây Sơn định dùng kế "viễn giao cận công" (''hòa xa đánh gần'') nên mời Xiêm La hợp tác.<ref name="qsq284"/> Tuy vậy, Nguyễn Ánh và vua Xiêm [[Rama I]] vốn có quen biết từ lâu nên định hợp sức lừa lại Tây Sơn, cùng phối hợp, quân Xiêm đánh đường núi, quân Nguyễn đánh đường thủy, giành lấy [[Phú Xuân]], cô lập [[Quy Nhơn]]. Kế hoạch này không thành vì Xiêm bận đối phó quân [[MyanmaMyanmar|Miến Điện]].<ref name="qsq284">{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|pp=284-285}}.</ref>
 
Quân Nguyễn dẫu lâm vào thế phòng thủ cũng ra sức chống cự, nhiều lần kìm hãm, thậm chí là đánh lại được quân Tây Sơn nhưng vẫn không ngăn được dòng tiến quân của Tây Sơn. Tướng [[Lê Trung]] tiến sâu vào lãnh thổ của quân Nguyễn, đánh chiếm được đến tận [[Phan Rí Cửa|Phan Rí]].<ref>{{harvnb|Phan Khoang|2001|p=542}}.</ref><ref name="mmkkllcdm">{{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|pp=281-282}}.</ref> Tháng 2 âm lịch năm [[1795]], Nguyễn Ánh ra sức phản công: cho Thái tử Cảnh giữ Gia Định, ông chia các tướng trấn giữ nhiều nơi nhằm kiềm hãm Tây Sơn rồi tự mình đem binh đi cứu Diên Khánh, có lúc đánh ra tận Phú Yên để tạo gọng kiềm kẹp quân Tây Sơn.<ref name="mmkkllcdm"/><ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=289}}.</ref> Mặc cho cố gắng vậy, cho tới thời điểm [[tháng tư|tháng 4]] năm [[1795]], mọi nỗ lực của quân Nguyễn đã không thể phá được Tây Sơn mà chỉ tạo ra thế giằng co qua lại. Chiến cục giằng co này đặc biệt rõ ở các khu vực Ninh Thuận - Khánh Hòa; trong khi thành Diên Khánh vẫn bị Tây Sơn vây chặt.<ref name="mmkkllcdm" />
Hàng 351 ⟶ 304:
Nghe tin Quang Toản bại trận ở Phú Xuân, [[Trần Quang Diệu]] đang vây thành Bình Định sai quân về cứu nhưng đụng độ quân Nguyễn của [[Lê Văn Duyệt]] đang xuống phía nam nên quân không về được.<ref name="TTK"/> Trong khi đó, [[Võ Tánh]] và [[Ngô Tùng Châu|Ngô Tòng Châu]] cùng các tướng giữ thành Bình Định thấy đã cạn kiệt lương thực, biết không chống nổi Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, nên tự sát để bảo toàn tính mạng cho quân lính trong thành. Tây Sơn tái chiếm thành Bình Định.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=406}}.</ref>
 
Tuy bị mất thành Bình Định nhưng Nguyễn Ánh vẫn tập trung phần lớn binh tướng đối phó với cuộc phản công của Quang Toản ở phía bắc, khi vua Tây Sơn dốc toàn lực ở Bắc Hà được hơn 3 vạn quân kéo vào để chiếm lại [[Phú Xuân]] và giúp Trần Quang Diệu. Mùng 1 tháng giêng âm lịch năm [[1802]], Tây Sơn theo đường biển và đường bộ đánh vào Phú Xuân. [[Nguyễn Quang Thùy]] dẫn thuyền chiến tới cửa [[Nhật Lệ]] thì bị [[Nguyễn Văn Trương]] chặn đánh. [[Bùi Thị Xuân]] thúc voi dẫn quân Tây Sơn đánh nhau với quân Nguyễn ở [[Trấn Ninh]], quân Tây Sơn nghe tin bị thua ở ngoài biển thì hỗn loạn, tan vỡ. Quang Toản chạy về [[Quảng Bình]]. Hay tin, Nguyễn Ánh bèn tiến hành chặn đánh quân Tây Sơn ở [[sông Gianh]], Quang Toản thua lớn bỏ chạy ra Bắc Hà.<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=436}}.</ref> Trên đà thắng lợi, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Duyệt điều quân 3 mặt đánh vào Quy Nhơn. Trần Quang Diệu cùng [[Võ Văn Dũng|Vũ Văn Dũng]] nghe tin Quang Toản đã bại trận, phải bỏ thành, mang quân ra cứu viện [[Nghệ An]]. Bị quân Nguyễn chặn đường, quân Tây Sơn buộc phải vòng qua đường [[Vạn Tượng]] ([[Lào]]).<ref name="harvnb23x"/> Lúc tới Nghệ An thì thấy thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng [[Trần Quang Diệu]] và [[Bùi Thị Xuân]] bị bắt.<ref name="harvnb47">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=164}}.</ref> Riêng Vũ Văn Dũng không rõ số phận.{{efn|Có thuyết nói [[Vũ Văn Dũng]] bị bắt nộp lại cho quân Nguyễn, cũng có thuyết trốn thoát và ẩn náu ở vùng [[Tây Nguyên]], sống đến 90 tuổi, mất vào đời [[Thiệu Trị]] ([[1841]]-[[1847]]). Tuy nhiên, theo {{ref_labelharvnb|bTạ Chí Đại Trường|b1973|nonep=343}} thì thuyết này hơi vô lý do hai lý do: thứ nhất là Văn Dũng không còn đủ trẻ để mà sống tận tới [[1853]] và thứ hai là việc lúc này quân Nguyễn treo thưởng Văn Dũng ngang với quan Thái phó [[Trần Quang Diệu]] khiến khả năng thoát khỏi quân Nguyễn là cực kỳ khó xảy ra. Chi tiết xin xem thêm [[Vũ Văn Dũng]].}}
 
Sau khi chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh làm lễ lên ngôi hoàng đế tháng 5 năm [[Bính Dần]] ([[1806]]).<ref>Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), ''Quốc triều chính biên toát yếu'', quyển II, tr. 63, Nhà Xuất bản Thuận Hóa.</ref><ref>Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), ''Đại Nam thực lục chính biên'', quyển 17, tr. 524, Nhà Xuất bản Giáo dục.</ref> Để tượng trưng sự thống nhất Nam-Bắc lần đầu tiên sau nhiều năm, Nguyễn Ánh chọn niên hiệu là '''Gia Long''', ''Gia'' lấy từ [[Gia Định]] và ''Long'' lấy từ [[Thăng Long]].<ref>{{harvnb|Tarling|1999|p=245}}.</ref>{{ref_labelefn|c1|c1|noneXét theo chữ Hán thì trong niên hiệu Gia Long (嘉隆) và Thăng Long (昇龍), chữ Long đầu mang nghĩa "long trọng" (隆) chứ không có nghĩa là "Rồng" (龍) như trong Thăng Long. Và về sau Gia Long cũng đổi chữ Hán của Thăng Long thành 昇隆 trong chính sách chung nhằm giảm trừ sự nhớ thương của dân chúng Bắc Hà đối với [[nhà Lê]]. Tham khảo tại: Phương Đình [[Nguyễn Văn Siêu]] (1959), Đại Việt địa dư toàn biên, địa chí loại quyển 5, Đại Nam phương dư chính biên, tỉnh Hà Nội, Nhà Xuất bản Tự Do, trang 363.}} Sau đó ông cho người đem toàn bộ ấn sách [[nhà Thanh]] trao cho Tây Sơn trả lại và xin phong, rồi sai [[Lê Văn Duyệt]] kéo quân tiếp ra Bắc Hà diệt hoàn toàn nhà Tây Sơn.<ref name="harvnb47"/>
 
Tháng 6 âm lịch năm [[1802]], Gia Long tiến ra chiếm được [[Thăng Long]], Quang Toản không chống nổi, bỏ chạy và sau đó bị bắt.<ref name="harvnb26">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=164-165}}.</ref> Nhà Tây Sơn bị tiêu diệt, Gia Long chính thức thống nhất quốc gia.
Hàng 367 ⟶ 320:
Không chỉ tru di gia tộc của vua nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh còn truy sát cả dòng họ của một số danh tướng nhà Tây Sơn. Trong bút ký "Còn mãi đến bây giờ". Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi rằng nhánh họ Bùi của nữ tướng [[Bùi Thị Xuân]] đã bị Gia Long giết sạch. Dòng họ của tướng [[Trần Quang Diệu]] bị truy sát, con cháu của ông phải dùng cách ''"sanh vi Nguyễn, tử vi Trần"'', tức là đổi họ từ Trần sang Nguyễn, nhưng khi mất sẽ ghi trên bia mộ là họ Trần (để nhắc nhở con cháu về dòng họ đích thực của tổ tiên).
 
Không chỉ trả thù những người theo nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh còn truy sát cả những người họ hàng rất xa (đã cách nhau cả chục đời) của Nguyễn Huệ. Theo sách ''"Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung"'' của PGS sử học [[Đỗ Bang]], thời kỳ đầu khi Gia Long lên ngôi, đã chỉ dụ cho dân địa phương ở xã Hưng Nguyên, tỉnh [[Nghệ An]] (nơi cụ tổ 10 đời của anh em nhà Tây Sơn từng sống vào 200 năm trước đó) rằng: ''“Hễ ai là bà con tộc thuộc của Tây Sơn ra khai báo, sẽ được trọng dụng bổ làm quan”''. Có những gia đình cùng họ với nhà Tây Sơn tưởng thật, đã ra khai báo, nhưng không ngờ tất cả đều bị bắt và bị giết. Hiện nay, có 24 gia đình gốc họ Hồ đều có người chết trong ngày đại tang Tây Sơn, giỗ vào ngày [[20 tháng 10]] âm lịch hàng năm. Những người còn sống do lẩn trốn sang các làng khác, có người phải đổi thành họ Nguyễn mới tránh được sự truy nã.<ref>[{{Chú thích web |url=http://thuvien.hue.gov.vn/?gd=6&cn=151&tc=986 |ngày truy cập=2018-04-23 |tựa đề=Thư viện Tổng hợp Thừa Thiên Huế<!-- Bot generated title -->] |archive-date = ngày 23 tháng 4 năm 2018 |archive-url=https://web.archive.org/web/20180423232422/http://thuvien.hue.gov.vn/?gd=6&cn=151&tc=986 }}</ref>
 
Việc làm này của ông về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của Nguyễn Ánh. Theo phân tích của các sử gia, cuộc báo thù này có nhiều nguyên nhân:
* Trả thù cho những việc Tây Sơn đã làm với các chúa Nguyễn là gia tộc của Nguyễn Ánh: Chúa Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương cùng các vương thất họ Nguyễn đều bị Tây Sơn truy sát và giết hại. Nguyễn Ánh còn tuyên bố rằng Tây Sơn đã quật lăng mộ tám chúa Nguyễn và lấy hài cốt ném xuống sông (điều này vẫn còn là nghi vấn).
* Trả thù cho những việc Tây Sơn đã làm với bản thân Nguyễn Ánh trước kia: quật lăng mộ của cha ông là Nguyễn Phúc Luân và lấy hài cốt ném xuống sông, các anh em ruột của ông là [[Nguyễn Phúc Đồng]], [[Nguyễn Phúc Điển]], các anh em họ như [[Nguyễn Phúc Hạo]], [[Nguyễn Phúc Mân]] đều bị quân Tây Sơn giết chết, em họ ông là công chúa [[Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền]] phải tự sát khi bị quân Tây Sơn làm nhục, và cả những nỗi khổ sổ trong những ngày tháng lênh đênh trốn chạy.<ref name="ctt"/><ref>{{harvnb|Oberdorfer|2001|p=203}}.</ref><ref name="vnk2"/>
* Dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần [[nhà Hậu Lê|Lê]]-[[Chúa Trịnh|Trịnh]]) phải quy thuận trước vương triều mới.{{ref_labelefn|d{{harvnb|dĐặng Việt Thủy|noneĐặng Thành Trung|2008|pp=285-286}} sách 54 vị Hoàng đế Việt Nam, do Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành (có dẫn ở phần thư mục) ghi như sau ''..Trước những hành động như vậy, sách sử xưa nay nói nhiều về chính sách hành động cứng rắn của vua Gia Long, nhiều đến mức thiên lệch cả ý kiến khen chê ông vua khai sáng triều Nguyễn. Gia Long đã tìm cách xóa cho kỳ hết những dấu tích về triều Tây Sơn, nhất là đối với [[Quang Trung]], người mà đương thời đã được dân tộc tôn vinh với chiến công huy hoàng trong việc đánh đuổi quân xâm lược [[Mãn Thanh]]. Sự tàn bạo này đã phá hủy gần như toàn bộ di sản văn hóa lịch sử triều Tây Sơn, một triều đại tuy ngắn ngủi nhưng đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong [[thế kỷ XVIII]] với nhiều biến cố lịch sử khác thường. Tuy nhiên, phải chăng Gia long xóa sạch dấu vết của nhà Tây Sơn chỉ vì trả thù cá nhân? Chắc hẳn vị vua này không thiển cận như thế? Tất nhiên, Tây Sơn bị trả thù vì những năm tháng lênh đênh phiêu bạt, vì sự tan nát vương nghiệp của các chúa Nguyễn cũng được xem là một lý do. Nhưng còn có một lý do sâu xa hơn, đó là chọn một giải pháp tối ưu cho vương triều ông mới thành lập. Triều Tây Sơn mà Gia Long gọi là giặc Tây cũng là kẻ thù của vương triều Lê-Trịnh. Dù vương triều này đã sụp đổ nhưng các cựu thần của vương triều cũ vẫn còn rải rác khắp nơi. Trừng phạt nghiêm khắc triều Tây Sơn còn để giương cao uy vũ, cảnh báo và khống chế mọi thế lực đối lập phải quy thuận theo vương triều mới. Thực tế cho thấy, sau khi vua [[Quang Trung]] mất, Tây Sơn đã sụp đổ, lực lượng còn lại quá bé nhỏ, nội bộ thì lục đục, đem quân đánh nhau, vua trẻ Quang Toản còn nhỏ tuổi, điều này đâu có đáng phải lo sợ để ra quá tay tàn bạo? Tàn dư của triều Tây Sơn là không đáng kể nhưng Gia Long vẫn thẳng tay đàn áp vì một lần giương cung, bắn tên, nhà vua đã đạt được hai mục đích: trả thù và kiềm chế, răn đe những lực lượng muốn trỗi dậy để phục hưng chống lại vương triều mới....''}} Có lẽ vì vậy, Nguyễn Ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. Ông tuyên bố: ''"Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh [[Xuân Thu]]"'' (theo tích [[Công Dương truyện]], [[Trang Công|Trang công]] năm thứ 4 chép: Tề Tướng công giết nước Kỷ, vì ông tổ xa đời là Ai công mà phục thù, đời gọi là mối thù chín đời);<ref>{{harvnb|Quốc sử quán triều Nguyễn|2007|p=485}}.</ref><ref name="nkt">{{harvnb|Nguyễn Khắc Thuần|2005|p=304}}.</ref>
 
Trong các đánh giá về sau về sự việc này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Ánh đã thực hiện trả thù quá tay, giết hại nhiều người không liên quan và "đôi lúc rất tiểu nhân".<ref name="vnk2">{{harvnb|Vũ Ngọc Khánh|2008|p=143}}.</ref><ref name="nkt"/>
 
Có những ý kiến bào chữa việc Nguyễn Ánh trả thù nhà Tây Sơn quá tàn khốc là vì Nguyễn Huệ đã ra lệnh đào lăng mộ 8 chúa Nguyễn. Ý kiến này dựa trên bộ sử [[Đại Nam thực lục]]<ref>Thực lục I, tr.466</ref>.
Có những ý kiến bào chữa việc Nguyễn Ánh trả thù nhà Tây Sơn quá tàn khốc là vì Nguyễn Huệ đã ra lệnh đào lăng mộ 8 chúa Nguyễn. Ý kiến này dựa trên bộ sử [[Đại Nam thực lục]]<ref>Thực lục I, tr.466</ref> và "Nguyễn Phúc Tộc thế phả" do nhà Nguyễn biên soạn. Tuy nhiên, nhiều ý kiến khác cho rằng việc Quang Trung cho phá lăng tẩm chúa Nguyễn là do sử quan thời Nguyễn hư cấu ra, thiếu bằng cứ xác đáng. Đúng là các lăng mộ chúa Nguyễn đã bị phá hủy vào thời kỳ đó, nhưng Phú Xuân vào giai đoạn 1781-1785 từng thuộc sự kiểm soát của quân [[chúa Trịnh]], rồi sau đó lại chiến sự liên miên, có rất nhiều các nhóm thổ phỉ chuyên đào mộ để cướp của, nên chưa thể quy trách nhiệm cho quân Tây Sơn nếu chỉ dựa vào ghi chép của Đại Nam thực lục. Ngoài bộ sách [[Đại Nam thực lục]] và "Nguyễn Phúc Tộc thế phả" do chính nhà Nguyễn viết, không có bộ sử nào khác của Việt Nam thời đó ghi chép lại việc này, dù đây là 1 sự kiện lớn, kể cả cuốn [[Hoàng Lê nhất thống chí]] của các học giả Ngô Gia văn phái đương thời (vốn chống Tây Sơn) cũng không ghi lại. Ghi chép của Đại Nam thực lục cũng không nói rõ việc đào mộ diễn ra vào ngày tháng năm nào, trong khi đây là một sự kiện rất quan trọng với nhà Nguyễn. Điều này cho thấy các sử quan nhà Nguyễn cũng không biết được lăng các chúa Nguyễn bị phá khi nào. Rất có thể các sử quan nhà Nguyễn đã dựa vào một việc có thực (lăng tẩm chúa Nguyễn bị phá) rồi cố ý gán trách nhiệm cho Nguyễn Huệ, nhằm bào chữa cho việc Nguyễn Ánh trả thù nhà Tây Sơn tàn khốc sau này, cũng như để hạ uy tín của nhà Tây Sơn trong nhân dân. {{Đoạn thiếu nguồn gốc|ngày=23 tháng 2 năm 2021}}
 
==Lên ngôi hoàng đế==
Hàng 447 ⟶ 400:
</center>
 
Hai vùng tổng trấn Bắc Hà và Nam Hà sẽ do hai quan Tổng trấn đứng đầu cùng với Phó Tổng trấn,<ref name="harvnb41"/> hai vị quan Tổng trấn sẽ nắm toàn quyền về luật pháp, kinh tế lẫn quân sự (hệ thống tổ chức này mãi đến đời Minh Mạng mới bị bãi bỏ).<ref>{{harvnb|McLeod|1991|p=16}}.</ref> Về các Trấn thì có quan Lưu trấn (gồm Trấn thủ, Cai bạ và Ký lục). Dưới Trấn là phủ, huyện, châu với các vị quan đứng đầu lần lượt là Tri phủ, Tri huyện, Tri châu.<ref name="harvnb41"/>
 
{{nghiên cứu gốc}}
Ngoài ra, Gia Long nối tiếp các đời [[chúa Nguyễn]] trước đó, tiếp tục thực hiện các động thái nhằm xác định chủ quyền của [[Việt Nam]] trên khu vực quần đảo [[Quần đảo Hoàng Sa|Hoàng Sa]] khi ông cho các hải đội ra khai thác và cắm cờ trên quần đảo này vào năm [[1816]]<ref name=Gendreau>{{harvnb|Chemillier-Gendreau|2000|p=180}}.</ref> (trước đó, thời vua [[Lê Thánh Tông]] đã khám phá hoặc biết tới nơi này ít nhất từ thế kỷ XV<ref name="ntg10">Nhiều tác giả (2009), Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, Nhà Xuất bản Trẻ, tr. 112.</ref> như giáo sĩ [[Jean-Louis Taberd]] thuật lại trong ''Journal of the Asiatic Society of Bengal'' in năm [[1837]].<ref>Republic of Vietnam. ''White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands''. Saigon: Ministry of Foreign Afairs, 1975. tr. 25.</ref> Công việc này nối tiếp những hoạt động của các [[chúa Nguyễn]] đầu thế kỷ XVII tổ chức khai thác trên các đảo<ref>Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn toàn tập, trang 119-120.</ref> và [[nhà Tây Sơn]] đã cho các hải đội ra khai thác sản vật<ref>[http://tapchiqptd.vn/vi/thong-tin-tu-lieu/hoang-sa-truong-sa-thoi-tay-son-1786-1802/6725.html Hoàng Sa, Trường Sa thời Tây Sơn (1786 - 1802)]</ref>){{or}}. Mốc năm [[1816]] là lần đầu tiên kể từ sau thời Hậu Lê, tổ chức hành chính được tổ chức một cách chính quy như thế trên một lãnh thổ thống nhất trong [[lịch sử Việt Nam]].<ref name="harvnb41"/>
 
===Chính sách xã hội===
[[Tập tin:Imperial Academy of Hue.jpg|240px|nhỏ|trái|[[Quốc Tử Giám (Huế)|Quốc Tử Giám tại Huế]], một trong những công trình đầu tiên Gia Long cho xây dựng để phát triển lại giáo dục thời hậu chiến. Dưới thời vua Gia Long, [[Minh Mạng]], Quốc Tử Giám được xây tại địa phận An Ninh Thượng, huyện [[Hương Trà]], cách kinh thành [[Huế]] chừng 5 km về phía tây, trường nằm cạnh [[Văn miếu Huế|Văn Miếu Huế]], mặt hướng ra [[sông Hương]]. Vào năm [[1908]], thời vua [[Duy Tân]], Quốc Tử Giám được dời vào phía đông nam Hoàng thành Huế (tức vị trí như ảnh hiện nay).]]
Thấy các quan đầu triều của mình đều chỉ là quan võ, Gia Long lưu ý đến việc học hành thi cử trong nước để tuyển lựa quan văn. Ông tổ chức lại các [[Văn miếu|Văn Miếu]], thờ [[Khổng Tử]], thực hiện chính sách trọng [[Nho giáo|Nho học]].<ref name="harvnb77"/> Ông cho thành lập [[Quốc Tử Giám (Huế)|Quốc Tử Giám]] ở [[Phú Xuân]] để dạy con quan, tổ chức [[thi Hương]] theo định kỳ để tuyển chọn nhân tài.<ref name="harvnb77"/> Ngoài ra, ông còn đặt thêm chức đốc học ở các trấn, và cho dùng những người có công danh ở đời [[nhà Lê]], để coi việc dạy dỗ ở địa phương.<ref name="harvnb77">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|p=177}}.</ref> Ông cũng sai Binh bộ Thượng thư<ref name="harvnb19"/> [[Lê Quang Định]] làm bộ sách 10 quyển ''Nhất thống địa dư chí'' vào năm [[1806]],<ref name="atx">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|pp=282-283}}.</ref> ghi nhận về tình hình địa lý, chính trị... các mặt của [[Việt Nam]] trên cơ sở điều tra đã thực hiện trước đó,<ref name="atx"/> đồng thời cho tìm các sách dã sử về [[nhà Hậu Lê|nhà Lê]] và [[nhà Tây Sơn]] để sửa lại quốc sử.<ref name="harvnb19">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|p=178}}.</ref> Thời của Gia Long là thời thịnh của thơ văn [[chữ Nôm]] với nhiều tác phẩm lớn: ''[[Hoa Tiên]]'' của [[Nguyễn Huy Tự]], ''[[Truyện Kiều]]'' của [[Nguyễn Du]]; và một bài văn[[Văn tế tướng sĩ trận vong]] không rõ tác giả do [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] ra chủ tế.<ref name="harvnb19"/>
 
Về luật pháp, Gia Long cho soạn bộ luật mới có tên gọi là [[Hoàng Việt luật lệ]] (còn được gọi là "luật Gia Long"), do Tổng trấn Bắc Thành [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] chủ biên bao gồm 22 quyển và 398 điều,<ref name="harvnb44">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=283}}.</ref> bộ luật này, dù có đôi chỗ cải biến, gần như chép nguyên mẫu từ luật của [[nhà Thanh]]<ref name="harvnb77"/> cho nên nhìn tổng thể khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ [[luật Hồng Đức]] của [[nhà Hậu Lê|nhà Lê]].<ref name="Nguyễn Khắc Thuần 2005 306"/>
 
Là vua một nước mới thống nhất sau mấy trăm năm nội chiến với nhiều phe phái tranh giành nhau xuất hiện liên tục,<ref>{{harvnb|Nguyễn Quang Trung Tiến|2008}}.</ref> cộng thêm chính sách thuế khóa cao và cưỡng bức xây dựng lớn;<ref>{{harvnb|Nguyễn Phan Quang|2004|p=174}}.</ref> sự bất bình của tầng lớp sĩ phu hoài nhớ Lê triều,<ref name="npq146">{{harvnb|Nguyễn Phan Quang|2004|p=146}}.</ref> và nạn đói thường xuyên diễn ra ở vài khu vực khắp nước nên Gia Long thường xuyên phải đối mặt với các phong trào chống đối ở khắp ba miền [[Việt Nam]] (đặc biệt ở khu vực Bắc Hà) với khoảng 73 phong trào trong suốt thời kỳ ông trị vì.<ref name="nkt29">{{harvnb|Nguyễn Khắc Thuần|2012|p=29}}.</ref>
 
Với khu vực Bắc Hà, ông thi hành một chính sách hai mặt:<ref name="harvnb43">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|pp=286-287}}.</ref> một mặt Gia Long tỏ vẻ tôn trọng [[nhà Hậu Lê]], ông phong quan tước cho con cháu nhà Lê (ví dụ như [[Lê Duy Hoán]] được phong 1016 tự dân và 10.000 mẫu tự điền để lo việc thờ cúng các vua Lê);<ref name="pq137">{{harvnb|Nguyễn Phan Quang|2004|p=137}}.</ref><ref name="pq130">{{harvnb|Nguyễn Phan Quang|2004|p=130}}.</ref> vời dùng các cựu thần Lê triều như [[NguyễnPhạm DuyQuý HợpThích]], [[Lê Duy Đản]], [[NgôVũ Trinh]], [[Nguyễn Đăng XiêmSở]]...<ref name="npq146"/> Ngoài ra, ông còn cho giữ gìn lăng tẩm, đền miếu các vua Lê, cho sửa chữa lại [[Lam Kinh]], xây đền Lê Bố Vệ, cho tổ chức lễ thờ tế vua Lê ở cấp quốc gia hằng năm cũng như "phong bách thần trong nước cho triều Lê".<ref name="harvnb43"/> Một mặt Gia Long tìm cách làm giảm tình cảm nhớ về [[nhà Lê]] của dân chúng bằng cách tiêu hủy những di sản của triều Lê: cho phá [[hoàng thành Thăng Long]] nhà Lê xây và thay thế bằng hoàng thành nhỏ hơn rất nhiều, thay chữ Long (龍) mang nghĩa là [[rồng]] trong [[Thăng Long]] (升龍) thành chữ Long (隆) mang nghĩa là thịnh vượng; và hủy sáu trường thi Hương ở Bắc Hà.<ref name="harvnb43"/>
 
Khu vực Nam Hà thì chủ yếu chỉ xuất hiện nạn cướp bóc nhỏ hay gây rối loạn mất an ninh; mãi đến khi Gia Long cử [[Lê Văn Duyệt]] vào làm Tổng trấn cai quản vùng này thì tình hình mới ổn định.<ref>{{harvnb|Nguyễn Phan Quang|2004|p=142-43}}.</ref> Các dân tộc thiểu số như người [[Khmer]] vẫn được cho phép thực hành [[Phật giáo tiểu thừa]], và quyền tự quyết các vấn đề ở địa phương; người [[Chăm]] vẫn có quốc gia và vua riêng trên danh nghĩa dưới quyền "bảo hộ" của chính quyền Việt Nam tại khu vực Ninh Thuận và Bình Thuận.<ref name="Goscha2016"/>
Hàng 467 ⟶ 420:
===Chính sách kinh tế===
[[Tập tin:Gia Long Thong Bao Hai Mat.jpg|nhỏ|220px|[[Tiền tệ Việt Nam thời Nguyễn#Các đồng tiền do nhà Nguyễn phát hành|Đồng tiền đúc ở thời Gia Long]]. Hai mặt trước sau với bốn chữ ''"Gia Long thông bảo"'' (嘉隆通寶) và ''"Thất phân"'' (七分).]]
Nhìn chung, Gia Long không quan tâm đến [[thương mại]].<ref>{{harvnb|Buttinger|1958|p=271}}.</ref>, việc buôn bán với nước ngoài thời Gia Long bị thu hẹp rất nhiều so với thời Tây Sơn. Ông đã nhiều lần từ chối người Anh khi họ đến xin được mua bán, ngay cả người Pháp khi đến mua bán cũng không được thuận lợi mấy.<ref name="harvnb29"/> Ông không cho phép người phương Tây lập phố buôn trên lãnh thổ Việt Nam,<ref name="harvnb42"/> triều Nguyễn dưới thời ông không khuyến khích cũng như không chào mời các thuyền buôn phương Tây.<ref name="harvnb42">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=284}}.</ref> Triều đình bấy giờ không có ý đóng cửa với [[phương Tây]] nhưng theo cách nhìn của hàng ngũ [[Nho giáo|Nho sĩ]] ở [[Việt Nam]], việc giao thương với phương Tây là không đáng tin cậy; cũng đồng thời với đó là sự lo ngại sự xâm lược bằng [[quân sự]] và truyền giáo của họ.<ref name="tg">{{harvnb|Nhiều tác giả|2007|p=37}}.</ref> đã dẫn đến chính sách như trên.
 
Ngoài một số trung tâm thương mại thành thị được phát triển ở các thành phố và cảng biển chính, phần lớn hoạt động mua bán vẫn diễn ra trên các [[sông|con sông]]. Triều đình nắm giữ độc quyền thương mại ở các mặt hàng có giá trị cao như [[ngà voi]], sừng [[nai]], [[bạch đậu khấu]], [[vàng]]...<ref name="Tarling1">{{harvnb|Tarling|1999|p=246}}.</ref> Mức thuế mua bán cao, việc cấp giấy phép khó khăn trong việc xuất khẩu [[gạo]], [[muối]], và [[kim loại]] cũng gây kìm hãm sự phát triển của thương mại.<ref>{{harvnb|Tarling|1999|p=271}}.</ref> Ngoại thương bị hạn chế, dân chúng bị cấm giao thương bằng đường biển, triều đình cấm xuất khẩu các loại gỗ quý và đánh thuế cảng, thuế xuất khẩu cao;<ref name="tg"/> quan hệ thương mại quan trọng với [[Trung Quốc]] nằm trong tay các thương gia [[người Hoa]] và quan lại, trong khi các thương gia người Việt thì bị hạn chế, chỉ được phép buôn bán trong nước.<ref name="Tarling1"/>
 
Về mặt [[nông nghiệp]], ruộng đất cũng được quản lý bằng các điền bạ ghi rõ về tình trạng, vị trí thứ hạng đất ruộng. Mỗi làng làm 3 quyển gửi lên bộ đóng dấu, 1 quyển sẽ lưu lại bộ, 1 quyển lưu lại tỉnh và 1 quyển gửi trả về làng. Bên cạnh đó, để bảo đảm đất cày cho mọi người nông dân, Gia Long ngay từ khi mới lên ngôi đã ra lệnh cấm trao đổi buôn bán ruộng công; và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ trong đó cho phép điển cố{{ref_labelefn|eĐiển cố ruộng đất ở đây có nghĩa là cầm cố ruộng đất ({{Chú thích sách|eauthor=Ban biên soạn chuyên từ điển: New Era|noneyear=2005|publisher=Nhà Xuất bản Văn hóa-Thông tin|title=Từ điển tiếng Việt|pages= 712}}), nghĩa rõ hơn: chính sách điển cố ở đây là cho một người thuê ruộng đất dùng làm việc công sau 3 năm sẽ lấy lại (tham khảo chi tiết tại {{Chú thích sách|author=Nguyễn Thế Anh |year=2008|publisher=Nhà Xuất bản Văn Học|title=Kinh tế & xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn|pages= 91}}).}} tối đa 3 năm.<ref name="harvnb3"/><ref>{{harvnb|Nguyễn Thế Anh|2008|p=91}}.</ref> Ngoài ra, Gia Long còn cho ban ''Lệ quân điền'' cũng về vấn đề ruộng công này, trong đó thời hạn chia ruộng đất được rút xuống ba năm và đối tượng chia ruộng trước hết nhằm ưu đãi quan lại và quân lính.<ref name="Nam1976">{{chú thích sách|author=Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam|title=Lịch sử Việt Nam|url=http://books.google.com/books?id=qrJuAAAAMAAJ|year=1976|publisher=Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội|page= 376}}</ref> Tuy nhiên, chính sách này không hiệu quả lắm do tỉ lệ ruộng công còn rất ít, mà tỉ lệ cấp lại lớn hơn hẳn thời Lê sơ.<ref>{{harvnb|Nguyễn Khắc Thuần|2005|pp=19-20}} cho biết quan nhất phẩm được 15 phần trong khi người thấp nhất trong xã hội chỉ được 4 phần.</ref> Và tình trạng người dân không có đất vẫn còn là một vấn đề.<ref name="Tarling1"/> [[Nhà Nguyễn]] thời vua Gia Long nhìn chung rất đề cao và khuyến khích nông nghiệp, tuy nhiên lại tỏ ra thiếu kinh nghiệm trị thủy các vùng phía Bắc dù cho nhà vua đã cho đầu tư đắp đê không ít.<ref name="kt20">{{harvnb|Nguyễn Khắc Thuần|2005|pp=20}}.</ref>
 
Về công nghiệp, triều đình nắm độc quyền trong ngành khai thác khoáng sản,<ref name="Tarling1"/> họ cho các thương nhân [[người Hoa]] khai thác để thu thuế.<ref name="harvnb29"/> Các phường đội, thợ thủ công đều chịu sự quản lý của triều đình, hầu hết thợ có kỹ năng và nguyên liệu thô đều được đưa vào các xưởng thủ công của triều đình ở [[Huế]].<ref name="Tarling1"/>
Hàng 604 ⟶ 557:
Thuế sẽ được giảm nếu địa phương gặp thiên tai địch họa dựa theo mức độ thiệt hại. Ngoài ra, nếu nhà nào có người đi làm đường, đào sông, xây thành... cũng được giảm thuế.<ref name="harvnb4"/> Nếu đã nộp thuế sản vật thì miễn thuế đinh,<ref name="harvnb2"/> thuế dành cho các thương thuyền nước ngoài cũng được định lại: cứ dựa trên kích thước thuyền mà đánh thuế nhiều hay ít.<ref name="harvnb3"/> Để tạo cơ sở tính thuế,<ref name="Tarling1"/> cùng với điền bạ (để quản lý ruộng đã nêu) dân chúng được quản lý qua sổ đinh bạ: 5 năm làm một lần mọi người từ thường dân tới quan lại từ 18 tuổi đến 59 tuổi đều phải được thống kê vào sổ đinh.<ref name="harvnb3"/>
 
Nhìn chung, thuế khóa mà người dân phải chịu vào thời Gia Long nặng hơn so với thời nhà Tây Sơn. Thời vua Quang Trung, nhà Tây Sơn chỉ giữ lại thuế đinh 1 quan 2 tiền, bỏ hẳn thuế điệu, đến thời Gia Long thì người dân phải đóng thêm 3 tiền hoặc 6 tiền thuế điệu, cộng thêm 1 hoặc 2 bát gạo. Một giáo sĩ người Pháp tên Guérard nhận xét rằng Gia Long đánh thuế quá nặng lên dân chúng: ''"Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba"''. Đối với miền núo, Gia Long ban hành các loại thuế đánh vào lâm thổ sản ở vùng này, làm cho ''"dân Man quanh năm nộp thuế không lúc nào rỗi''<ref name=autogenerated12>[[Đại Nam thực lục]], tập 27, tr. 140.</ref>, hậu quả là ''"dân phải nhặt củ rau và quả ở núi để ăn cho no bụng"''<ref name=autogenerated13autogenerated14>[[Đại Nam thực lục]], tập 28, tr. 256.</ref>.
 
Chính vì việc tăng thuế khóa quá nặng so với thời Tây Sơn nên dân chúng rất bất bình, góp phần tạo nên nhiều cuộc khởi nghĩa chống nhà Nguyễn vào thời Gia Long và tâm lý hoài niệm triều Tây Sơn của người dân Việt Nam trong thế kỷ 19.
Hàng 611 ⟶ 564:
Về mặt [[tôn giáo]], triều vua Gia Long mang nhiều tính [[thế tục]],<ref name="Goscha2016"/> ông từ chối không đưa [[Phật giáo]] trở thành Quốc giáo như các triều [[triều Lý|Lý]] hay [[triều Trần|Trần]] dù ông từng có một thời gian sinh sống rất dài tại [[Thái Lan]] cũng như mối quan hệ rất sâu đậm với vua [[Rama I]]; cũng như ông phủ quyết ngay lập tức các đề nghị thử tiếp nhận [[Công giáo La Mã]].<ref name="Goscha2016">{{chú thích sách|author=Christopher Goscha|title=The Penguin History of Modern Vietnam: A History|url=http://books.google.com/books?id=kTVUCwAAQBAJ&pg=PT54|date=ngày 30 tháng 6 năm 2016|publisher=Penguin Books Limited|isbn=978-0-14-194665-8|pages=54–55}}</ref> Bên cạnh đó, Gia Long xem [[Nho giáo]], cùng với các khuôn mẫu tổ chức chính quyền kiểu [[Trung Quốc]], là hệ tư tưởng chính thống trong xây dựng và cai trị quốc gia,<ref name="Goscha2016"/> cho nên chính sách về tôn giáo của Gia Long là ngược hẳn so với [[Nguyễn Huệ#Tôn giáo|chính sách tôn giáo của nhà Tây Sơn]].<ref name="Tarling1"/>
 
Dưới triều của ông, đã có nhiều chỉ dụ quy định nên nhiều chính sách có tính ngược đãi đối với những người theo [[Phật giáo]] và [[Đạo giáo|Lão giáo]].<ref name="Tarling1"/> [[Công giáo tại Việt Nam|Công giáo]] cũng được khoan thứ vì [[quan hệ giữa Nguyễn Ánh và người Pháp|mối quan hệ của ông với người Pháp]] và các giáo sĩ không bị cấm đoán và được tự do đi truyền đạo khắp nơi.<ref name="Buttinger1">{{harvnb|Buttinger|1958|p=241}}.</ref> Nhìn chung, chính sách của Nguyễn Ánh đối với [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo]] là một chính sách không bảo vệ cũng như không bài bác.<ref>Như trong một chỉ dụ về tôn giáo ngày [[4 tháng 3]] năm [[1804]] ông đã ra lệnh kiểm soát tôn giáo này một cách phòng ngừa như sau: ''"đạo [[Bồ Đào Nha]] (tức Công giáo) là một đạo ngoại lai đã được truyền một cách chùng lén khắp nước và hiện nay vẫn còn dù chính phủ đã cố gắng hủy bỏ cái đạo dị đoan này. Hỏa ngục là một chỗ ghê gớm đạo này dùng để làm cho kẻ ngu xuẩn khiếp sợ, còn thiên đàng mà đạo hứa sẽ ban cho những người ngay lành là một thành ngữ rất kêu để quyến rũ những người khờ khạo. Một số khá lớn dân chúng trong nước bị thấm nhiễm tà đạo và đã quen giữ lề luật một cách mù quáng thiếu suy nghĩ nên không sao mở mắt họ được. Do đó từ nay trong các tổng, các làng có nhà thờ của người Công giáo, cấm sửa chữa hoặc xây dựng lại những ngôi nhà thờ đã bị hư nát, còn cất nhà thờ mới ở những nơi chưa có tuyệt nhiên bị cấm hẳn"''. Bên cạnh đó, khi mới diệt xong Tây Sơn, ông ra một sắc lệnh bênh vực những người Công giáo từ chối không tham gia cúng lễ ở làng: ''"Phải chăng người Công giáo là một người dân trong nước? Họ cũng trả thuế như những người khác. Nếu những người dân tin tưởng vào các thần linh, không ai cấm đoán họ, nhưng cũng có những người khác không tin tưởng vào các vị ấy, thì cũng không nên bắt buộc họ thông công vào việc tế tự vào các vị thần mà họ không tin tưởng"''. Ngoài ra, Gia Long không ra bất cứ chỉ dụ biệt đãi nào dành cho Công giáo; cũng như không có vụ bắt đạo nào được ghi nhận dưới thời của ông. {{harvnb|Nguyễn Văn Kiệm|2013|pp=149-151}}.</ref> Tuy vậy, Gia Long vẫn đề cao cảnh giác và ra nhiều biện pháp phòng ngừa và hạn chế vấn đề truyền bá đạo Công giáo xâm hại tới trật tự xã hội, văn hóa truyền thống; và nguy cơ các thế lực [[phương Tây]] thâm nhập Việt Nam thông qua các giáo sĩ.<ref>{{harvnb|Nguyễn Văn Kiệm|2013|pp=149-151}}.</ref><ref>[http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/moi-quan-he-giua-nho-giao-va-cong-giao-o-viet-nam Mối quan hệ giữa Nho giáo và Công giáo ở Việt Nam] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20150722020107/http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/moi-quan-he-giua-nho-giao-va-cong-giao-o-viet-nam |date = ngày 22 tháng 7 năm 2015}}, Nguyễn Hồng Dương, Thông báo Hán Nôm học 2008; tr. 196-211.</ref> <!-- [ĐÃ CÓ TRÍCH DẪN ĐẦY ĐỦ TRONG CHÚ THÍCH CỦA NGUYỄN VĂN KIỆM PHÍA TRÊN, KHÔNG CẦN LẶP LẠI) Ví dụ như trong ''Điều lệ hương đảng'', ban hành năm Giáp Tý (1804), Gia Long có viết: "''Lại như đạo Gia Tô là tôn giáo nước khác truyền vào nước ta, bịa đặt ra thuyết thiên đường, địa ngục khiến kẻ ngu phu, ngu phụ chạy vạy như điên, tiêm nhiễm thành quen mê mà không biết''"-->
 
===Chính sách quân sự===
Hàng 634 ⟶ 587:
:''“Dân Bắc kỳ từng khẩn cầu vị quốc vương hiện thời (Nguyễn Ánh) giúp họ triệt phá nhà Tây Sơn, nhưng sau khi ông ta cai trị họ chưa đầy sáu năm, họ đã nguyền rủa ông ta mỗi ngày vì ông bắt họ lao động nặng nhọc còn gấp đôi thời Tây Sơn; lòng họ muốn nổi loạn, nhưng họ không có đủ sức (để làm như vậy) và thiếu người lãnh đạo đủ khả năng xúi họ bạo loạn.”''
 
Đối với người dân tộc thiểu số, vua Gia Long đã ban hành các loại thuế đánh vào lâm thổ sản ở vùng người dân tộc, làm cho ''"dân Man quanh năm nộp thuế không lúc nào rỗi"''.<ref name=autogenerated12 /> Hậu quả là ''"dân phải nhặt củ rau và quả ở núi để ăn cho no bụng".''<ref name=autogenerated13autogenerated14 /> Các vua đầu thời Nguyễn còn cưỡng bách văn hóa một số dân tộc khi cho rằng: ''Bọn man mọi ngu dại chưa thấm nhuần phong hóa, cần buộc họ cắt tóc, ăn mặc và sinh hoạt giống như người miền xuôi.''<ref>''Việt Nam thế kỷ XIX'' ([[1802]]-[[1884]]), tr. 221.</ref>
 
Sự tham nhũng của quan lại cũng là một nguyên nhân, như Chaigneau người Pháp đã ghi lại năm [[1807]]: ''“Dân chúng hết sức khốn khổ, vua và quan lại làm khổ dân một cách kỳ lạ; công lý này tùy thuộc tiền bạc, kẻ giàu có thể đánh đập người nghèo mà không sợ bị trừng phạt gì, vì họ tin chắc nhờ tiền bạc họ sẽ thắng kiện".''<ref>J. Chesneaux, Contribution à histoire de la nation Vietnamiene. Paris cơ sở xuất bản xã hội, 1955, trang 85.</ref>
Hàng 641 ⟶ 594:
 
===Các vụ án công thần===
Dưới thời Gia Long đã có 2 vụ án lớn là vụ án của hai công thần [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] và [[Đặng Trần Thường]].<ref name="harvnb20">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=182-184}}.</ref>
 
====Vụ án Nguyễn Văn Thành====
[[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] ([[1758]]–[[1817]]) là người theo Nguyễn Ánh từ ngày đầu ông khởi binh chống Tây Sơn ở Quy Nhơn, lập được nhiều công to đứng đầu công thần. Sau chiến tranh, Nguyễn Văn Thành là người ổn định trấn [[Bắc Hà]], sau lại về kinh làm tới chức Trung quân, tổng tài làm sách luật và quốc sử.
 
Vụ án của Nguyễn Văn Thành có nguồn cơn [[Gia Long#Truyền ngôi cho Minh Mạng|từ vấn đề chọn người nối ngôi của Gia Long]]. Vốn là con trai cả, [[Nguyễn Phúc Cảnh]], cũng như người con trai thứ hai và thứ ba của Gia Long đều đã mất trước khi ông lên ngôi vua ([[1802]]) nên ông phải quyết định chọn người kế lập trong số các con cháu trực hệ, trong số này thì hai ứng cử viên nặng ký nhất là người con thứ tư (hoàng tử [[Nguyễn Phúc Đảm]]) và con trai của Nguyễn Phúc Cảnh là Hoàng tôn [[Nguyễn Phúc Mỹ Đường]].<ref name=Tay11/> Gia Long vốn có ý chọn người con trai thứ tư này khi đã hơn 26 tuổi, đã đủ tuổi trưởng thành và khó bề bị khống chế; nhưng nhiều đình thần vẫn ủng hộ Mỹ Đường theo quan điểm ''"[[đích tôn thừa trọng]]"'' rằng cháu nam lớn nhất và trực hệ sẽ được thay thế cha trong việc kế thừa ông nội, trong đó [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] là người ủng hộ công khai và mạnh mẽ Mỹ Đường.<ref name=Tay11>{{harvnb|Taylor|2013|p=411}}.</ref> Gia Long đã từng trách Nguyễn Văn Thành: ''"Hắn muốn dựng vua nhỏ để sau này dễ khống chế".''<ref name="choi57">{{harvnb|Choi|2004|p=57}}.</ref> Về việc này thì [[Choi Byung Wook]], giáo sư [[lịch sử Việt Nam]] thuộc trường [[Đại học Quốc gia Hàn Quốc]], cho rằng ''"hẳn nhà vua đã nhớ tới việc khi ông mới mười lăm tuổi đã lên ngôi vương và thường bị [[#Xưng vương|tướng Đỗ Thanh Nhơn chèn ép]]".''<ref name="choi57"/>
 
Năm [[1815]], trong một buổi tiệc rượu tại tư phủ, Nguyễn Văn Thành lại buột miệng nói về vấn đề nối ngôi là Mỹ Đường chắc chắn sẽ lên ngôi Thái tử và việc này ngay lập tức được mật báo cho Gia Long.<ref name=Tay11/> Ngay sau đó, lại xảy ra vụ việc bài thơ 'tạo phản' của con trai ông Thành là Cử nhân Nguyễn Văn Thuyên.<ref name="Dương Quảng Hàm"/> Nội dung việc này cụ thể như sau: Cử nhân Nguyễn Văn Thuyên làm một bài thơ mời hai người ở [[Thanh Hóa]] là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận qua tay một người chuyển tên là Nguyễn Trương Hiệu đại khái là:<ref name="harvnb20"/>
Hàng 696 ⟶ 649:
Vụ án của Đặng Trần Thường được bắt đầu vào khoảng năm [[1809]], khi ông này được triệu từ [[Thăng Long]] trở về [[Phú Xuân]] để làm việc ở Bộ Binh thì nổ ra vụ việc bê bối trong nhóm các viên quan làm sổ phong bách thần cho những người xứng đáng ở xứ [[Bắc Hà]], mà đứng đầu nhóm này là Đặng Trần Thường. Triều đình Huế khi tiến hành kiểm tra thì phát hiện có nhiều sự gian dối trong việc ghi chép hành trạng và quyết định mở án điều tra.<ref name=Tay12>{{harvnb|Taylor|2013|p=412}}.</ref>
 
Thông qua việc điều tra này, Đặng Trần Thường bị phát hiện làm gian Sắc phong thần cho [[Hoàng Ngũ Phúc]], vốn là tướng của [[chúa Trịnh]] từng dẫn quân đánh đuổi [[chúa Nguyễn]] và chiếm Phú Xuân năm [[1775]], vào bậc [[phúc thần]] bằng cách xóa các tước hiệu chúa Trịnh phong cho Phúc và thêm tên Phúc này vào sổ nộp về triều đình. Một cuộc tranh cãi lớn nổ ra giữa các đình thần là xử chém Đặng Trần Thường hay xá tội cho ông này trên cơ sở các công lao đã lập được.<ref name=Tay12/> Trong vụ án này, [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]] là người đứng đầu nhóm xin tha cho Thường vì vốn hai ông có mối quan hệ tốt từ trong giai đoạn Nguyễn Văn Thành làm [[Tổng trấn Bắc Hà]].<ref name=Tay12/>
 
Cuối cùng, đích thân Gia Long quyết ra án chém Thường vì những việc trước Hoàng Ngũ Phúc đã làm với dòng họ [[chúa Nguyễn]] cũng như những ảnh hưởng cả đến cả cá nhân Gia Long; riêng Nguyễn Văn Thành cũng bị phạt vạ vì đã biện hộ cho Thường.<ref name=Tay12/> Tuy nhiên, Gia Long nghĩ đến công lao ngày trước nên ông lại tha chết cho Thường, chỉ cấm Thường rời khỏi Huế<ref name=Tay12/>. Sau khi Nguyễn Văn Thành bị bắt giữ năm [[1816]]<ref name=Tay12/> thì [[Lê Chất]], một người có nhiều hiềm khích với Đặng Trần Thường, lại bới những việc sai phạm của Thường ra như khi ra coi Tào binh ở Bắc Thành đã có giấu thuế đầm ao và dinh điền. Vì vậy, Đặng Trần Thường lại bị bắt giam và trong ngục ông này tỏ ý mỉa mai Gia Long. Việc đó đến tai đình thần, nên khi kết án, đình thần xử tội [[xử giảo|giảo]] (thắt cổ đến chết).<ref name="Dương Quảng Hàm">{{harvnb|Dương Quảng Hàm|1968|p=103}}.</ref> Tương truyền Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài "Hàn Vương tôn phú" bằng [[Chữ Nôm|quốc âm]] để ví mình như [[Hàn Tín]] đời [[nhà Hán]].<ref name="harvnb20"/><ref name="Dương Quảng Hàm"/>
Hàng 710 ⟶ 663:
Bệnh ngày càng nặng dần, và Gia Long cố gắng giấu điều này.<ref name="Wilcox2010">{{chú thích sách|author=Wynn Wilcox|title=Vietnam and the West: New Approaches|url=http://books.google.com/books?id=EvqKqpSCpaEC&pg=PA43|year=2010|publisher=SEAP Publications|isbn=978-0-87727-782-8|pages=43–}}</ref> Đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân Gia Long bí mật triệu bác sĩ [[Treillard]] của tàu buôn Pháp ''Henri'', khi này đang được mời để trị bệnh cho công chúa thứ chín,<ref>{{chú thích sách|title=Portuguese Studies Review|url=http://books.google.com/books?id=y_4jAQAAIAAJ|year=2001|publisher=International Conference Group on Portugal|page=202}}</ref> vào cung chữa bệnh cho ông.<ref name="Wilcox2010"/> Treillard (có thể có cả sự giúp đỡ của bác sĩ [[J. M. Despiau]], một bác sĩ người Pháp thân cận của vua Gia Long) bí mật điều trị cho nhà vua trong khoảng bốn tháng.<ref name=autogenerated13>{{chú thích sách|author=Wynn Wilcox|title=Vietnam and the West: New Approaches|url=http://books.google.com/books?id=EvqKqpSCpaEC&pg=PA50|year=2010|publisher=SEAP Publications|isbn=978-0-87727-782-8|pages=50}}</ref> Và sau đó vị bác sĩ này cùng với đoàn người trên tàu ''Henri'' rời đi vào khoảng ngày [[2 tháng 11]] năm [[1819]].<ref name="Wilcox2010"/> Năm tháng sau đó, sức khỏe nhà vua ngày càng suy yếu dần và đến ngày [[19 tháng 12]] năm [[Kỷ Mão]] (tức ngày [[3 tháng 2]] năm [[1820]]),<ref name="harvnb40">{{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|p=285}}.</ref> vua Gia Long qua đời, hưởng thọ 59 tuổi, ở ngôi 18 năm, [[miếu hiệu]] là '''Thế Tổ''' (世祖).<!-- có bên phần [[chôn cất]] rồi, xem ở dưới! --><ref name="harvnb30">{{harvnb|Trần Trọng Kim|1971|p=184}}.</ref>
 
Về nguyên nhân qua đời, nhà nghiên cứu-lương y Lê Hưng VKD sau khi nghiên cứu ''"ngự dược nhật ký"'' năm [[Kỷ Mão]] - [[1819]] (nhật ký ghi chép lại 94 lần kê toa (gồm 24 bài thuốc) của [[Thái y viện]] triều Nguyễn đã dùng để chữa bệnh cho Gia Long), cho rằng nhà vua có thể đã bị chứng [[Xơ gan|xơ gan cổ chướng]] mà qua đời. Thời đó đây là bệnh không có cách chữa. Ông còn nhận xét ''"Phải chi thời đó có khả năng "cận lâm sàng" như hiện nay thì vị vua "khai sáng triều Nguyễn" đã có thể sống vượt qua năm Kỷ Mão [[1819]] (vì phát hiện được sớm bệnh trạng thuộc hệ tiêu hóa, do ký sinh trùng tai hại gây ra… tổn thương gan)".''<ref>{{Chú thích web| url =http://www.sugia.vn//assets/file/Benh-cua-vua-Gia-Long.pdf | tiêu đề = Hồi cứu y sử: Bệnh trạng cuối đời của vua Gia Long | tác giả 1 = Lê Hưng VKD | ngày = 17 tháng 10 năm 2012 | ngày truy cập = 27 tháng 022 năm 2014 | nơi xuất bản= Hội Khoa Học Lịch sử Bình Dương| ngôn ngữ = tiếng Việtvi }}</ref>
 
[[Tập tin:Tombe de Gia Long.JPG|nhỏ|phải|200px|Phần mộ Gia Long trong khuôn viên Lăng Thiên Thọ. Được chôn cạnh Gia Long là bà [[Tống Phúc Thị Lan|Thừa Thiên Cao Hoàng hậu Tống Thị Lan]]]]
Hàng 726 ⟶ 679:
Vốn là con trai cả, [[Nguyễn Phúc Cảnh]], cũng như người con trai thứ hai và thứ ba của Gia Long đều đã mất trước khi ông lên ngôi vua ([[1802]]) nên Gia Long phải quyết định chọn người kế lập trong số các con cháu trực hệ, trong số này thì hai ứng cử viên nặng ký nhất là người con thứ tư (hoàng tử [[Nguyễn Phúc Đảm]]) và con trai của Nguyễn Phúc Cảnh là Hoàng tôn [[Nguyễn Phúc Mỹ Đường]].
 
Mặc dù có nhiều đình thần phản đối nhưng ông vẫn muốn chọn vị hoàng tử thứ tư là [[Minh Mạng|Nguyễn Phúc Đảm]] làm người kế vị thay vì chọn dòng đích là Mỹ Đường, bất chấp có nhiều đại thần phản đối theo nguyên tắc "đích tôn thừa trọng" (cháu cả được thay thế cha (trong việc kế thừa ông nội)), trong đó có những trọng thần như [[Lê Văn Duyệt]] hay [[Nguyễn Văn Thành (quan nhà Nguyễn)|Nguyễn Văn Thành]].<ref name=Tay11/><ref name="choi5758">{{harvnb|Choi|2004|p=57-58}}.</ref> Hoàng tử Đảm vốn là người hay bài xích đạo Công giáo và không có chút cảm tình nào với người Pháp - tư tưởng này hợp với Gia Long. Gia Long đã dặn trong di chiếu rất rõ với [[Minh Mạng]] rằng hãy đối xử tử tế với người Âu nhưng hết sức cảnh giác trước các tham vọng của họ,<ref name="Nguyễn Quang Trung Tiến" /> ngoài ra hoàng tử Đảm khi đó đã là một người trưởng thành và khó lòng bị khống chế so với Mỹ Đường đang trong lứa tuổi thiếu niên.
 
Sau khi Nguyễn Văn Thành uống thuốc độc tự tử [[#Các vụ án công thần|trong một vụ án]] có liên quan tới việc này, phe ủng hộ Mỹ Đường thất bại khi Gia Long chính thức phong cho Nguyễn Phúc Đảm làm Thái tử năm [[1817]]<ref name="choi57"/> và sau đó kéo cho tận tới sau khi Thái tử Đảm lên ngôi năm [[1820]].<ref name="choi57"/>
Hàng 749 ⟶ 702:
Về thời kỳ Gia Long, giáo sư [[Đại học Western Connecticut State]] Wynn Wilcox mô tả ông là một chính trị gia có hiểu biết, người hiểu và có thể tác động vào tính phức tạp của triều đình ngay khi ông đang hấp hối.<ref name="Wilcox2010" /> [[Encyclopædia Britannica|Bách khoa toàn thư Anh]] thì ghi nhận ông là một vị vua cẩn trọng, bảo thủ, điều đã ảnh hưởng tới các triều vua nối ngôi ông.<ref>{{chú thích sách|title=The New Encyclopaedia Britannica: Micropaedia (10 v.)|url=http://books.google.com/books?id=Rw48AAAAMAAJ|year=1983|publisher=Encyclopaedia Britannica|isbn=978-0-85229-400-0|page=526}}</ref> Còn nhà nghiên cứu [[Đông Á]] Joseph Buttinger thì mô tả Gia Long là một [[Nho giáo|Nho sĩ]] nghiêm khắc.<ref name="Buttinger1972">{{chú thích sách|author=Joseph Buttinger|title=A dragon defiant: a short history of Vietnam|url=http://books.google.com/books?id=Yg8sAAAAMAAJ|year=1972|publisher=Praeger|page=56}}</ref> [[Keith Weller Taylor]] thì nhận xét nhà vua vẫn giữ các thói quen từ thời chiến trong cung đình qua việc ông ''"không vội vàng nhưng rất quyết đoán"'' khi giải quyết chuyện chính sự.<ref name="abcdsxzaasa">{{harvnb|Taylor|2013|p=412-413}}.</ref>
 
Gia Long rất chán ghét sự rối ren nơi hậu cung do các bà vợ hay đấu đá lẫn nhau. Ông từng tâm sự với một triều thần gốc Pháp là J.B. Chaigneau: ''“Trị nước thật dễ dàng, không khó nhọc bằng trị chốn nội cung của mình”''. Ông gọi các bà vợ là ''“những con quỷ cái”'', và: ''“Nếu làm đúng thì tôi phải trị tội cả bọn, vì không biết rõ trong cả bọn ấy có đứa nào không độc ác bằng mấy đứa nào!”'' <ref>[{{Chú thích web |url=http://baodatviet.vn/van-hoa/nguoi-viet/vua-gia-long-toat-mo-hoi-voi-chon-hau-cung-2257815 |ngày truy cập=2019-01-10 |tựa đề=Vua Gia Long ‘toát mồ hôi’ với chốn hậu cung - DVO - Báo Đất Việt<!-- Bot generated title -->] |archive-date=2019-01-10 |archive-url=https://web.archive.org/web/20190110183417/http://baodatviet.vn/van-hoa/nguoi-viet/vua-gia-long-toat-mo-hoi-voi-chon-hau-cung-2257815 |url-status=dead }}</ref>
 
==Gia quyến==
Hàng 768 ⟶ 721:
# [[Nguyễn Phúc Ngọc Du]] (阮福玉瑜; [[1761]] - [[1820]]), mẹ là Nguyễn Từ phi, được phong làm ''Phúc Lộc Trưởng công chúa'' (福祿長公主). Hạ giá lấy Cai cơ quận công [[Võ Tánh]].
# [[Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền]] (阮福玉璿; ? - [[1782]]), mẹ là Nguyễn Từ phi, chết khi bị Tây Sơn làm nhục. Về sau truy tặng ''Minh Nghĩa Trưởng công chúa'' (明義長公主), thụy là ''Trinh Liệt'' (貞烈). Hạ giá lấy Nguyễn Hữu Thụy (阮有瑞), không con.
# [[Nguyễn Phúc Ngọc Uyển]] (阮福玉琬; [[1765]] - [[1810]]), mẹ là Cung tần Tống thị,. Năm Tự Đức thứ 22 được phongtruy làmtặng ''DiênMỹ Ninh TrưởngHòa công chúa'' (延寧長美和公主), thụy là ''Ý Mỹ''. Hạ giá lấy Tống Phúc Tín.
 
===Hậu cung===
Hàng 784 ⟶ 737:
| Chiêu nghi || Trinh Nhã || Nguyễn Thị Điền || || style="text-align:left" |
|-
| Chiêu dung || Trinh Thục || Lâm Thức || || style="text-align:left" |Còn có húy là '''Thi'''. Không rõ năm sinh năm mất, chỉ biết bà mất tại Gia Định{{sfn|Đại Nam thực lục, tập 1|2006|p=704}} trước khi Gia Long lấy lại được Phú Xuân, tức là khoảng trước năm 1802. Năm Gia Long thứ 7 ([[1808]]), mộ phần được đưa về Phú Xuân chôn cất{{sfn|Đại Nam thực lục, tập 1|2006|p=704}}.
|-
| Chiêu dung
Hàng 837 ⟶ 790:
| 2 || Thuận An công<br>(順安公) || Đôn Mẫn<br>(敦敏)|| [[Nguyễn Phúc Hy]]<br>(阮福曦) ||[[1782]] – [[21 tháng 5]] năm [[1801]]||''không rõ'' || style="text-align:left"|Không con. Dưới thời [[Thiệu Trị]] được đổi thờ ở đền Thân Huân.
|-
| 3 || || || [[Nguyễn Phúc Tuấn]]<br>(阮福晙) || ''không rõ'' || Chiêu dung Lâm Thức || style="text-align:left"|Lên 12 tuổi thì mất tại Gia Định{{sfn|Đại Nam thực lục, tập 1|2006|p=704}}. Năm Gia Long thứ 7 ([[1808]]), mộ phần được đưa về Phú Xuân chôn cất{{sfn|Đại Nam thực lục, tập 1|2006|p=704}}. Táng tại khu vực Cầu Bối, phường [[Thủy Xuân, Huế]].
|-
| 4 || '''[[Minh Mạng|Thánh Tổ Hoàng đế]]'''<br>(聖祖皇帝) || '''Nhân Hoàng đế'''<br>(仁皇帝) || Nguyễn Phúc Đảm (阮福膽)<br>Nguyễn Phúc Kiểu (阮福晈) ||[[25 tháng 5]] năm [[1791]] – [[20 tháng 1]] năm [[1841]]||[[Thuận Thiên Cao Hoàng hậu]] ||style="text-align:left"|Hoàng đế thứ hai của [[nhà Nguyễn]].
Hàng 847 ⟶ 800:
| 7 || Diên Khánh vương<br>(延慶王) || Cung Chính<br>(恭正) || [[Nguyễn Phúc Tấn]]<br>(阮福晉) ||[[21 tháng 3]] năm [[1799]] – [[17 tháng 7]] năm [[1854]]|| Chiêu nghi Nguyễn Thị Điền || style="text-align:left"|
|-
| 8 || Điện Bàn công<br>(奠盤公) || Cung Đốc<br>(恭篤) || [[Nguyễn Phúc Phổ]]<br>(阮福普) ||[[3 tháng 5]] năm [[1799]] – [[11 tháng 9]] năm [[1860]]|| CungKhông tần Nguyễn Thị Thụy || style="text-align:left"|Đại Nam liệt truyện ghi "không rõ mẹ là ai". Nguyễn Phúc tộc Thế phả ghi mẹ ông là cung tần Nguyễn Thị Thụy.
|-
| 9 || Thiệu Hóa Quận vương<br>(紹化郡王) || Cung Lương<br>(恭良) || [[Nguyễn Phúc Chẩn]]<br>(阮福晆) ||[[30 tháng 4]] năm [[1803]] – [[26 tháng 10]] năm [[1824]]||[[Thuận Thiên Cao Hoàng hậu]] || style="text-align:left"|
Hàng 898 ⟶ 851:
|-
| 18 || || || Nguyễn Phúc Ngọc Trình<br>(阮福玉珵) || [[1817]] – [[1823]] || Tài nhân Đặng Thị Duyên || style="text-align:left"|Mất sớm. Táng tại khu vực Cầu Bối, phường [[Thủy Xuân, Huế]].
|-
| Không xếp|| || || Nguyễn Phúc Ngọc Dao || ? – ? || ? || style="text-align:left"|Mất sớm. Thụy là Trinh Thục. Thờ tại đền Triển thân (theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ).
|-
|}
Hàng 904 ⟶ 859:
 
==Nhận định==
{{cần biên tập|trích dẫn dài dòng, viết không súc tích}}
 
Quá trình Nguyễn Ánh - Gia Long xây dựng cơ nghiệp [[nhà Nguyễn]] và cai trị một nước [[Việt Nam]] sau nhiều thế kỷ chia cắt và nội chiến, cũng như các di sản và hệ quả ông để lại trong dòng [[lịch sử Việt Nam]] là chủ đề của rất nhiều sách, báo, cũng như các công trình nghiên cứu khác nhau. Sau đây là một số lời nhận xét của các sử gia và nhà nghiên cứu về ông:
;Nhận định chung
Hàng 953 ⟶ 910:
''Nhưng một lần nữa, giữa lý thuyết [rằng hệ tư tưởng Nho giáo sẽ thống nhất được lòng người ở Việt Nam] và thực tế luôn luôn là hai thứ khác biệt. Không phải vì Gia Long chọn [[Nho giáo]] là hệ tư tưởng chính thống nên nó sẽ có thể hoạt động hiệu quả ngay. Việc đó đã không xảy ra. Gia Long là một nhà quân sự và ông rất tự hào về việc này. Ông chẳng bao giờ có được thời gian để được học tập về Nho giáo khi còn trẻ và có thể là ông cũng chẳng bao giờ nghĩ nghiêm túc về việc này. Ông đã đạt được sự kính trọng, xây dựng được quân đội và giành được chiến thắng sau cùng cho bản thân vào năm [[1802]] dựa trên tính thực tế, sự sáng tạo của bản thân, khả năng thỏa hiệp và sự chính trực. Thứ hai, Gia Long hiểu rõ về sự mong manh của nước [[Việt Nam]] mới thống nhất sau ba mươi năm nội chiến. Quân đội [[chúa Trịnh]] và Tây Sơn có thể đã bị giải tán, nhưng sự trung thành thì vẫn bị chia rẽ sâu sắc. Những vết thương từ cuộc chiến có thể đã lành, nhưng viết sẹo của nó thì vẫn còn. Sự căm tức và lòng thù hận thường hay lẩn khuất dưới cái vẻ ngoài mỏng manh mang tên sự yên bình. Vị hoàng đế thắng trận đã không thực sự cải thiện điều gì khi ông tiến hành săn đuổi và giết chết tất cả những lãnh đạo và hậu nhân của Tây Sơn, những người mà ông quy trách nhiệm cho việc đồ sát và tận diệt dòng tộc của mình. Điều thứ ba, Gia Long hiểu rất rõ quyền lực về chính trị, quân sự cũng như kinh tế của các gia tộc và lãnh chúa ở các địa phương. Gia tộc [[nhà Nguyễn]] cũng xuất phát là một gia tộc lớn ở địa phương và bản thân Gia Long đã góp phần phát triển một nhóm mới như vậy tại khu vực cơ sở quyền lực của ông ở miền Nam Việt Nam. Sự thật là, đồng minh lâu năm và bạn thân của Gia Long tại Gia Định là tướng [[Lê Văn Duyệt]] trên thực tế đã cai trị miền Nam Việt Nam sau năm [[1802]]. Hoàng đế đã phong thưởng các đồng minh thời chiến của mình bằng các vị trí cao cấp ở khu vực miền Trung và miền Nam. Đó là vì sao mà dù đã đề ra [[Hoàng Việt luật lệ|một bộ luật theo tư tưởng Nho giáo]], khôi phục lại chế độ thi cử khoa bảng, xây dựng kinh đô mới gồm cả một [[Tử Cấm Thành]] của chính mình; Gia Long vẫn duy trì một lực lượng quân sự rất lớn. Ở [[vùng miền Trung]], triều đình cai trị thông qua bốn doanh và bảy trấn quân sự độc lập. Ở khu vực miền Bắc và miền Nam, nhà vua cũng thành lập mỗi vùng năm trấn như vậy. Dưới thời Gia Long, các quan Trấn thủ cũng là một phần của văn hóa chính trị tại Việt Nam có vai trò giống như vị vua theo Nho giáo vậy. Thể chế chính trị song song này đã có ít nhất từ thời trỗi dậy của các họ Mạc, Trịnh và Nguyễn ở thế kỷ XV nếu không là sớm hơn nữa.''|||Christopher Goscha<ref name="Goscha20162">{{chú thích sách|author=Christopher Goscha|title=The Penguin History of Modern Vietnam: A History|url=http://books.google.com/books?id=kTVUCwAAQBAJ&pg=PT54|date=ngày 30 tháng 6 năm 2016|publisher=Penguin Books Limited|isbn=978-0-14-194665-8|pages=55-56}}</ref>}}
 
Về luật pháp, Gia Long cho soạn bộ luật mới có tên gọi là [[Hoàng Việt luật lệ]] (còn được gọi là "luật Gia Long").<ref name="harvnb44"/> Trong 398 điều thì chỉ có 2 điều là rút từ ''Quốc triều Hình luật'' thời Hậu Lê, vài chục điều luật khác biệt chút ít về từ ngữ so với luật của [[nhà Thanh]] bên Trung Quốc, các điều luật còn lại đều sao chép lại nguyên xi tên gọi lẫn nội dung kể cả các tiểu chú của các điều luật trong “Đại Thanh luật lệ”.<ref>[http://www.vjol.info/index.php/nctq/article/viewFile/26255/22475 Về mối quan hệ giữa "Hoàng Việt luật lệ" và "Đại Thanh luật lệ"] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20190109111321/http://www.vjol.info/index.php/nctq/article/viewFile/26255/22475 |date = ngày 9 tháng 1 năm 2019}} Nguyễn Thị Thu Thủy. Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011</ref> Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần nhận xét bộ luật này về tổng thể là khá khắc nghiệt, không được tiến bộ như bộ [[luật Hồng Đức]] của [[nhà Hậu Lê|nhà Lê]].<ref name="Nguyễn Khắc Thuần 2005 306"/>
 
Về chính sách thuế khóa và lao dịch, Gia Long áp mức thuế và lao dịch rất nặng lên dân chúng để chi tiêu cho xây dựng và quân đội. Việc xây thành [[Phú Xuân]] và đào [[kênh Vĩnh Tế]] phải huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm [[1818]] mô tả việc xây thành Phú Xuân ([[Huế]]): ''“Nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào việc xây tòa thành và các công trình công cộng khác. Khi tôi đến Huế, đã có đến 8 vạn người được điều động từ các nơi trong cả nước đang khẩn trương xây dựng một tòa thành rộng lớn bằng gạch... Riêng việc xây bờ thành đã tốn kém những khoản tiền khổng lồ và làm thiệt hàng ngàn nhân mạng vì phải khổ dịch liên tục... Nhà vua [Gia Long] đã vung ra những món tiền lớn và hy sinh tính mạng của hàng ngàn dân chúng vì họ phải làm việc không nghỉ tay trên các tường lũy của kinh thành”.''<ref name="đượclsvn16"/> Một giáo sĩ người Pháp tên Guérard nhận xét rằng:
Hàng 969 ⟶ 926:
 
=== Vấn đề cầu viện quân đội nước ngoài ===
Giáo sư [[Trần Văn Giàu]] nhận xét việc Nguyễn Ánh cầu viện Pháp, cho các sĩ quan Pháp làm quan trong triều đình đã để lại tai họa cho đất nước:<ref>{{Chú thích web|url=http://tuanbaovannghetphcm.vn/luan-ve-nhung-nguyen-nhan-viet-nam-mat-nuoc-ve-tay-phap/|tiêu đề=Luận về những nguyên nhân Việt Nam mất nước về tay Pháp|website=Tuần báo Văn nghệ|ngày truy cập=2023-01-09|archive-date=2017-10-02|archive-url=https://web.archive.org/web/20171002215439/http://tuanbaovannghetphcm.vn/luan-ve-nhung-nguyen-nhan-viet-nam-mat-nuoc-ve-tay-phap/|url-status=dead}}</ref>
{{cquote|
''...đúng là sĩ quan Pháp đã giúp nhiều cho Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn. Cho nên trong triều đình [[Huế]], đến khi Gia Long lên ngôi, vẫn còn thấy mấy quan đại thần mắt xanh tóc đỏ. Khỏi phải nói trắng ra, các quan đại thần đó như Dayot, Chaigneau, Vannier… đều là tai mắt của [[Paris]]. Còn Paris thì các nhà cầm quyền từ Đệ nhất Đế chế đến Đệ tam Cộng hòa đều không lúc nào quên [[Hiệp ước Versailles 1787]]. Paris luôn nhắc nhở Huế cái hiệp ước “trời cho” ấy bằng đường ngoại giao và bằng đại bác của chiến hạm bắn lên Đà Nẵng.''
Hàng 993 ⟶ 950:
:''Đây không còn là hành vi bán nước của từng phần tử phong kiến mà là sự phản bội dân tộc của các thế lực phong kiến nắm quyền thống trị. Giai cấp phong kiến đang trải qua một quá trình phân hóa sâu sắc, trong đó từng bộ phận phong kiến cầm quyền, có tính chất đại diện, đã phản bội lợi ích dân tộc và sẵn sàng câu kết với giặc. Kẻ thù của độc lập dân tộc tìm thấy một chỗ dựa, một lực lượng nội ứng ngay bên trong cơ cấu xã hội''
 
Tại hội thảo về Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam tại [[Thanh Hóa]], tháng 10 năm [[2008]], sử gia [[Phan Huy Lê]] phát biểu như sau: ''"Trước đây có quan điểm cực đoan gọi đây là hành động "cõng rắn cắn gà nhà", là bán nước. Đúng là không thể biện hộ cho hành động "không sáng" này, cũng có thể coi là một tì vết trong sự nghiệp của Nguyễn Ánh, nhưng phải nhìn nhận công bằng. Trong những cuộc đấu tranh bên trong quyết liệt, việc nhờ đến ngoại viện là chuyện thường xảy ra trong lịch sử. Nhưng điều quan trọng nhất là người cầu ngoại viện phải giữ được độc lập chủ quyền của dân tộc, đưa lại lợi ích cho đất nước, còn nếu cầu ngoại viện mà bất lực để mất nước thì có tội lớn... Có thực tế là thế lực Nguyễn Ánh yếu, không kiềm chế nổi quân Xiêm, chính ông đã có lúc than thở: "Ta đưa quân Xiêm vào thế này, giờ nó cướp bóc giết hại nhân dân, nhân dân oán thán như vậy, ta được nước còn có nghĩa gì?" Cũng có thực tế nữa là quân Xiêm đã bị quân Tây Sơn đánh tan trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút. Nhưng người ta có thể suy luận rằng, nếu quân Xiêm không bị Tây Sơn đánh bại, thì chắc gì Nguyễn Ánh đã kiềm chế được quân Xiêm, nhất là đặt trong tham vọng của vương triều Xiêm lúc bấy giờ đang muốn khống chế cả Chân Lạp và Gia Định. Hành động của Nguyễn Ánh cần phân tích và đánh giá một cách công minh''".<ref>{{harvnb|Khánh Linh|2008}}.</ref> Trong bài viết về Hội thảo khoa học này, ông [[Phan Huy Lê]] khẳng định: ''“Về cá nhân trước đây khi nghiên cứu về phong trào Tây Sơn và kháng chiến chống Xiêm, tôi đã từng lên án hành động này của Nguyễn Ánh và đến nay vẫn không thay đổi (Tôi nhấn mạnh)".''<ref>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/cong-hay-toi-deu-can-duoc-ghi-nhan-day-du-ro-rang-so-500/ Công hay tội đều cần được ghi nhận đầy đủ, rõ ràng - Tuần báo Văn Nghệ TP.HCM<!-- Bot generated title -->]</ref>
 
{{cquote|
''...Hiệp ước Versailles không được thực thi vì sự bùng nổ của cách mạng Pháp năm [[1789]]. Còn viện trợ do Bá Đa Lộc vận động từ các thuộc địa Pháp thì lực lượng tuy không nhiều nhưng cũng có tác dụng giúp Nguyễn Ánh trong việc xây thành lũy, huấn luyện quân sĩ, phát triển thủy quân, mua sắm vũ khí... và hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của Nguyễn Ánh. Khi xem xét ngoại viện, điều quan trọng là cần phân tích và làm sáng rõ hành động cầu ngoại viện có được kiểm soát trên cơ sở giữ được chủ quyền, đưa lại lợi ích cho đất nước hay không, nếu dẫn đến mất chủ quyền, mất độc lập là phạm tội làm mất nước, một tội ác không thể dung thứ. Trên tinh thần đó, tuy còn những khác biệt nhất định nhưng hội thảo đều cho rằng hành động đưa 5 vạn quân Xiêm vào Gia Định là một "điểm mờ", một "tỳ vết" trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ánh.''
|||Hội thảo ''Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam''<ref>Một phần tổng kết hội thảo ''Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam'' tại Thanh Hóa, tháng 10 năm 2008, nhiều vấn đề về Gia Long và nhà Nguyễn được thảo luận. Bài tổng kết hội thảo do giáo sư [[Phan Huy Lê]] viết, {{harvnb|Phan Huy Lê|2008}}.</ref>}}
 
{{cquote|
Hàng 1.011 ⟶ 964:
Về phía [[Pháp]], sử gia đương thời Gosselin cho rằng:<ref>Gosselin, L’Empire d’Annam, Paris, Librairie Académique Didier, Perrin et Cie, Libraires-Editeurs, 1904, t.XVII.</ref>
:''Những vị hoàng đế nước Nam, bởi sự bội bạc đối với những người Pháp lẫy lừng đã làm quan cho Gia Long, mà nhờ họ, ông ta [Gia Long] mới có được ngai vàng; bởi sự tàn ác đối với những giáo sĩ đồng bào của chúng ta; bởi sự cứng đầu điên dại bế quan tỏa cảng; bởi sự khinh bỉ nền văn minh [[phương Tây]], vì kiêu căng ngu muội, họ cho là man rợ; bởi sự kiên trì từ chối tiếp xúc với nước ngoài, trừ nước Tầu; những hoàng đế này, tôi nói rằng, phải chịu trách nhiệm sự suy đồi và sụp đổ của nước họ, phải gánh vác một mình, sự nhục nhã trước lịch sử.''
 
Tại [[An Giang]], người dân truyền tụng những câu ca dao phê phán rất thẳng, rất gay gắt, chửi cả tông tộc nhà Nguyễn, từ vua khai quốc Gia Long đến vua cuối cùng [[Bảo Đại]] là ''"dòng [[Việt gian]]"'' vì hành động cầu viện ngoại xâm để giành ngôi vị<ref>[http://vusta.vn/chitiet/tin-tuyen-sinh-dao-tao/Net-rieng-cua-tieng-cuoi-trong-ca-dao-An-giang-1011 Nét riêng của tiếng cười trong ca dao An giang]</ref>:
{{cquote|''Bảo Đại là cháu Gia Long''<br>''Là con Khải Định, là dòng Việt gian''<br>''Gia Long cõng rắn cắn gà''<br>''Giầy mả ông bà, Bảo Đại rước voi''<br>''Ai ơi phải nhớ mấy lời''<br>''Đừng cho kẻ hại giống nòi mọc lên.''}}
 
Trong bài thơ ''[[Lịch sử nước ta (thơ lịch sử)|Lịch sử nước ta]]'', Chủ tịch [[Hồ Chí Minh]] đã phê phán hành động cầu viện quân đội ngoại quốc của Nguyễn Ánh:
Hàng 1.020 ⟶ 970:
 
==Chú giải==
{{Danh sách ghi chú}}
{{refbegin}}
• a){{note_label|a|a|none}} Manuel còn được gọi với tên phiên âm ra [[tiếng Việt]] là Mạn Hòe ({{harvnb|Cao Tự Thanh|2007|p=186}}), Mãn-noài ({{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=108}}).
 
• b){{note_label|b|b|none}} Có thuyết nói [[Vũ Văn Dũng]] bị bắt nộp lại cho quân Nguyễn, cũng có thuyết trốn thoát và ẩn náu ở vùng [[Tây Nguyên]], sống đến 90 tuổi, mất vào đời [[Thiệu Trị]] ([[1841]]-[[1847]]). Tuy nhiên, theo {{harvnb|Tạ Chí Đại Trường|1973|p=343}} thì thuyết này hơi vô lý do hai lý do: thứ nhất là Văn Dũng không còn đủ trẻ để mà sống tận tới [[1853]] và thứ hai là việc lúc này quân Nguyễn treo thưởng Văn Dũng ngang với quan Thái phó [[Trần Quang Diệu]] khiến khả năng thoát khỏi quân Nguyễn là cực kỳ khó xảy ra. Chi tiết xin xem thêm [[Vũ Văn Dũng]].
 
• c){{note_label|c|c|none}} Đây là nền kho Gian Thảo cũ (hiện tại nằm ở chợ Cầu Kho, Thành phố Hồ Chí Minh). Xem tại {{harvnb|Sơn Nam|2009|p=55}}.
 
• c1){{note_label|c1|c1|none}} Xét theo chữ Hán thì trong niên hiệu Gia Long (嘉隆) và Thăng Long (昇龍), chữ Long đầu mang nghĩa "long trọng" (隆) chứ không có nghĩa là "Rồng" (龍) như trong Thăng Long. Và về sau Gia Long cũng đổi chữ Hán của Thăng Long thành 昇隆 trong chính sách chung nhằm giảm trừ sự nhớ thương của dân chúng Bắc Hà đối với [[nhà Lê]]. Tham khảo tại: Phương Đình [[Nguyễn Văn Siêu]] (1959), Đại Việt địa dư toàn biên, địa chí loại quyển 5, Đại Nam phương dư chính biên, tỉnh Hà Nội, Nhà Xuất bản Tự Do, trang 363.
 
• d){{note_label|d|d|none}} {{harvnb|Đặng Việt Thủy|Đặng Thành Trung|2008|pp=285-286}} sách 54 vị Hoàng đế Việt Nam, do Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành (có dẫn ở phần thư mục) ghi như sau ''..Trước những hành động như vậy, sách sử xưa nay nói nhiều về chính sách hành động cứng rắn của vua Gia Long, nhiều đến mức thiên lệch cả ý kiến khen chê ông vua khai sáng triều Nguyễn. Gia Long đã tìm cách xóa cho kỳ hết những dấu tích về triều Tây Sơn, nhất là đối với [[Quang Trung]], người mà đương thời đã được dân tộc tôn vinh với chiến công huy hoàng trong việc đánh đuổi quân xâm lược [[Mãn Thanh]]. Sự tàn bạo này đã phá hủy gần như toàn bộ di sản văn hóa lịch sử triều Tây Sơn, một triều đại tuy ngắn ngủi nhưng đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong [[thế kỷ XVIII]] với nhiều biến cố lịch sử khác thường. Tuy nhiên, phải chăng Gia long xóa sạch dấu vết của nhà Tây Sơn chỉ vì trả thù cá nhân? Chắc hẳn vị vua này không thiển cận như thế? Tất nhiên, Tây Sơn bị trả thù vì những năm tháng lênh đênh phiêu bạt, vì sự tan nát vương nghiệp của các chúa Nguyễn cũng được xem là một lý do. Nhưng còn có một lý do sâu xa hơn, đó là chọn một giải pháp tối ưu cho vương triều ông mới thành lập. Triều Tây Sơn mà Gia Long gọi là giặc Tây cũng là kẻ thù của vương triều Lê-Trịnh. Dù vương triều này đã sụp đổ nhưng các cựu thần của vương triều cũ vẫn còn rải rác khắp nơi. Trừng phạt nghiêm khắc triều Tây Sơn còn để giương cao uy vũ, cảnh báo và khống chế mọi thế lực đối lập phải quy thuận theo vương triều mới. Thực tế cho thấy, sau khi vua [[Quang Trung]] mất, Tây Sơn đã sụp đổ, lực lượng còn lại quá bé nhỏ, nội bộ thì lục đục, đem quân đánh nhau, vua trẻ Quang Toản còn nhỏ tuổi, điều này đâu có đáng phải lo sợ để ra quá tay tàn bạo? Tàn dư của triều Tây Sơn là không đáng kể nhưng Gia Long vẫn thẳng tay đàn áp vì một lần giương cung, bắn tên, nhà vua đã đạt được hai mục đích: trả thù và kiềm chế, răn đe những lực lượng muốn trỗi dậy để phục hưng chống lại vương triều mới....''
 
• e){{note_label|e|e|none}} Điển cố ruộng đất ở đây có nghĩa là cầm cố ruộng đất ({{Chú thích sách|author=Ban biên soạn chuyên từ điển: New Era|year=2005|publisher=Nhà Xuất bản Văn hóa-Thông tin|title=Từ điển tiếng Việt|pages= 712}}), nghĩa rõ hơn: chính sách điển cố ở đây là cho một người thuê ruộng đất dùng làm việc công sau 3 năm sẽ lấy lại (tham khảo chi tiết tại {{Chú thích sách|author=Nguyễn Thế Anh |year=2008|publisher=Nhà Xuất bản Văn Học|title=Kinh tế & xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn|pages= 91}}).
{{refend}}
 
== Chú thích và tham khảo ==
Hàng 1.042 ⟶ 980:
{{Multicol}}
* {{Citation
| ref=harv
| author=Trần Trọng Kim
| authorlink=Trần Trọng Kim
Hàng 1.053 ⟶ 990:
| year=1971
| ISBN=
| access-date=2008-08-10
}}.
| archive-date=2018-08-27
| archive-url=https://web.archive.org/web/20180827094049/http://www.songhuong.com.vn/main.php?cid=40,3&id=16&case=2&left=40,18&gr=3
}}.
* {{Chú thích
| author=Tạ Chí Đại Trường
Hàng 1.071 ⟶ 1.011:
| place=[[Thành phố Hồ Chí Minh]]
| volume=
| edition=1 | year=2009
| year=2009
}}.
* {{Chú thích
Hàng 1.115 ⟶ 1.054:
}}.
* {{Citation
| ref=harv
| author=Lê Thành Khôi
| authorlink=Lê Thành Khôi
Hàng 1.128 ⟶ 1.066:
}}. (Bản dịch tiếng Pháp từ ''L’Histoire du Vietnam: Des origines à 1858'', Nhà Xuất bản Sud Est Asie, Paris, 1982 và mục V (chương VII), và chương IX cuốn ''Le Viet-Nam, histoire et civilisation'', Minuit, Paris, 1955)
* {{Citation
| ref=harv
| author=Thụy Khuê
| authorlink=Thụy Khuê (nhà nghiên cứu)
Hàng 1.175 ⟶ 1.112:
| place=[[Việt Nam]]
| volume=In trong Tập sách ''"Triều Nguyễn & Lịch sử của chúng ta"''
| edition= 3 | year=2013
| year=2013
}}.
* {{Chú thích
Hàng 1.185 ⟶ 1.121:
| place=[[Việt Nam]]
| volume=In trong Tập sách ''"Triều Nguyễn & Lịch sử của chúng ta"''
| edition=3 | year=2013
| year=2013
}}.
* {{Chú thích
Hàng 1.195 ⟶ 1.130:
| place=[[Việt Nam]]
| volume=In trong Tập sách ''"Triều Nguyễn & Lịch sử của chúng ta"''
| edition=3 | year=2013
| year=2013
}}.
* {{Chú thích
Hàng 1.205 ⟶ 1.139:
| place=[[Việt Nam]]
| volume=In trong Tập sách ''"Triều Nguyễn & Lịch sử của chúng ta''"
| edition=3 | year=2013
| year=2013
}}.
* {{Chú thích
Hàng 1.215 ⟶ 1.148:
| place=[[Việt Nam]]
| volume=In trong Tập sách ''"Triều Nguyễn & Lịch sử của chúng ta"''
| edition=3 | year=2013
| year=2013
}}.
* {{Chú thích
Hàng 1.225 ⟶ 1.157:
| place=[[Việt Nam]]
| volume=In trong Tập sách ''"Triều Nguyễn & Lịch sử của chúng ta"''
| edition=3 | year=2013
| year=2013
}}.
* {{Chú thích
Hàng 1.248 ⟶ 1.179:
| year=2010
}}.
* {{Chú thích
| url = http://nguyenphuoctoc.net/doc/nguyengiapha/nguyengiapha-pha.pdf
| title = Nguyễn Phước gia phả
| access-date = 10 tháng 8 năm 2008
Hàng 1.255 ⟶ 1.186:
| work = Phả đồ Họ Nguyễn
| publisher = Gia tộc Nguyễn Phước
| language =
| author = Gia tộc Nguyễn Phước
| year = 2006
| archive-date = ngày 19 tháng 2 năm 2009 | archive-url = https://web.archive.org/web/20090219050247/http://nguyenphuoctoc.net/doc/nguyengiapha/nguyengiapha-pha.pdf
}}{{dead link|tháng 7 năm 2011}}.
}}.
* {{Chú thích
| url = http://nguyenphuoctoc.net/de-pha/vuagialong.htm
| title = Đức Thế tổ Cao Hoàng đế húy Nguyễn Phúc Ánh (1762 - 1820)
| access-date = 10 tháng 8 năm 2008
| format =
| work = Đế phả Nguyễn Phước Tộc
| publisher = Gia tộc Nguyễn Phước
| language =
| author = Gia tộc Nguyễn Phước
| year = 2006b
|archive-date = ngày 19 tháng 8 năm 2008 |archive-url = https://web.archive.org/web/20080819175732/http://nguyenphuoctoc.net/de-pha/vuagialong.htm
}}{{dead link|tháng 7 năm 2011}}.
}}.
* {{Chú thích
| url =<!--http://vietnamnet.vn/vanhoa/2008/10/808823/-->http://vnn.vietnamnet.vn/vanhoa/2008/10/808823/
Hàng 1.665 ⟶ 1.598:
[[Thể loại:Bài Việt Nam chọn lọc]]
[[Thể loại:Người Huế]]
[[Thể loại:Mất năm 1820]]
[[Thể loại:Sinh năm 1762]]
[[Thể loại:Gia Long]]