Sụt lún

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do Haixia02 (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 09:52, ngày 30 tháng 6 năm 2018 (→‎Sụt lún Biển Chết). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

Sụt lún (chữ Anh : Depression, chữ Trung : 坳陷, bính âm : Àoxiàn, Hán - Việt : Ao hãm) phiếm chỉ kiến tạo xuống thấp của phần trên vỏ trái đất mà không giống nhau về nguyên nhân hình thành. Thuật ngữ này không có hạn chế tiêu chuẩn kích thước lớn nhỏ hoặc hình dạng, thí dụ như bồn địa (basin), lòng máng (slot), địa hào (graben), lũng tách giãn (rift valley), v.v Cho nên các loại xuống thấp này có thể trực tiếp gây ra nguyên nhân chuyển động vỏ trái đất hướng vào các cạnh rìa, cũng có thể do chỗ ép nén hoặc kéo duỗi hướng vào cạnh bên mà dẫn đến sinh ra.

Vũng nước trên hình là sụt lún tự nhiên, chỗ nước tụ đọng và động vật đến mà uống.

Giải nghĩa

Sụt lún phiếm chỉ kiến tạo xuống thấp của phần trên vỏ trái đất mà không giống nhau về nguyên nhân hình thành. Thuật ngữ này không có hạn chế tiêu chuẩn kích thước lớn nhỏ hoặc hình dạng, thí dụ như bồn địa (basin), lòng máng (slot), địa hào (graben), lũng tách giãn (rift valley), v.v Cho nên các loại xuống thấp này có thể trực tiếp gây ra nguyên nhân chuyển động vỏ trái đất hướng vào các cạnh rìa, cũng có thể do chỗ ép nén hoặc kéo duỗi hướng vào cạnh bên sinh ra.[1]

  1. Vùng lún xuống hình dạng đĩa bên trong vỏ trái đất, nó là đặc trưng vì đứt gãy trầm tích của bồn địa không có hoặc không sinh sản, do đó thành là đơn nguyên kiến tạo (tectonic unit) được xếp cạnh nhau với gãy lún (downfault).
  2. Đơn nguyên kiến tạo cấp đầu tiên của phạm vi lún xuống tương đối mạnh thêm bên trong bồn địa. Nó có thể là một trong những trung tâm nhiều hay ít sự lún xuống của bồn địa bên trong craton, cũng có thể là vùng lún xuống của bồn địa lũng tách giãn phức tạp (thí dụ như sụt lún Tế Dương của bồn địa Vịnh Bột Hải[2]), thế thì nó là đơn nguyên kiến tạo được xếp với nhô lên (swell) nhưng mà tương phản tính chất.

Phân biệt sụt lún với lõm lún

Lõm lún (chữ Anh : Sag, chữ Trung : 凹陷, bính âm : Āoxiàn, Hán - Việt : Ao hãm) và sụt lún là khái niệm không giống nhau, sự tách biệt biểu thị đơn nguyên kiến tạo của bồn địa mà loại cấp không giống nhau, sụt lún là đơn nguyên kiến tạo cấp thứ nhất của bồn địa, thí dụ như sụt lún Tế Dương của bồn địa Vịnh Bột Hải, lõm lún là cấp bậc đơn nguyên kiến tạo thứ hai của bồn địa, thí dụ như lõm lún Đông Doanh (Dongying sag) của sụt lún Tế Dương, nhưng lại có đơn nguyên kiến tạo cấp thứ ba ví như trũng lún (chữ Anh : Sink, chữ Trung : 洼陷, bính âm : Wāxiàn, Hán - Việt : Oa hãm). Nhô lên (swell) và lồi lên (convex) cũng là khái niệm không giống nhau về cấp bậc.

Lõm lún và sụt lún là hàm chứa đơn nguyên kiến tạo của một cấp bậc vùng dầu khí, loại cấp của sụt lún phải cao hơn lõm lún một điểm : sụt lún thuộc về đơn nguyên kiến tạo cấp thứ nhất (viết tắt là cấp thứ), là khu vực sâu nhất của nền móng bồn địa bị che lấp, chôn vùi xuống, trầm tích tầng đá mũ (cap rock) phát dục đầy đủ cả, độ dày to, nham tướng (lithic facies) tương đối ổn định ; lõm lún là đơn nguyên kiến tạo cấp thứ hai (viết tắt là cấp á), ở giữa các đơn nguyên kiến tạo cấp thứ nhất như sụt lún hoặc nhô lên với các đơn nguyên kiến tạo cấp thứ hai như gương lò dài (long wall) hoặc nếp lồi (anticline), chúng thông thường được tính toán và phân chia ở trong bồn địa chứa dầu khí có hình trạng to lớn dựa vào một ít cấu tạo địa chất nào đó tương đối phức tạp.[1]

Sụt lún điển hình

Sụt lún Tế Dương

Sụt lún Tế Dương (chữ Anh : Jiyang depression, chữ Trung : 济阳坳陷) ở vào phía đông bình nguyên Hoa Bắc, trong kiến tạo nó thuộc về đơn nguyên kiến tạo cấp thứ nhất của bồn địa vịnh Bột Hải, do bởi sụt lún Tế Dương là bồn địa biến ra dầu trọng yếu của Trung Quốc, do đó nó được quan tâm và chú ý gấp bội của nhà địa chất học, đồng thời nêu ra quan điểm nguyên nhân hình thành bồn địa khác nhau. Ví dụ như ông Tông Quốc Hồng đề xuất, sụt lún Tế Dương là do gánh vác chập chồng của ba hình mẫu bồn địa là bồn địa đảo ngược (Inverted basin), bồn địa quay phải (Dextrorotation basin) và lũng tách giãn chủ động mà thành nên. Cũng có người cho rằng đối lưu nhiệt manti dẫn đến ảnh hưởng kéo duỗi vỏ trái đất là nguyên nhân chủ yếu hình thành sụt lún Tế Dương. Ông Tất Gia Phúc và cộng tác viên của ông ấy dùng mô thức kéo duỗi tổ hợp mà chia tầng lớp bóc tách để giải thích kiến tạo kéo duỗi của khu vực này. Vậy nên thêm nhiều người nhấn mạnh sự nâng lên của manti và tác dụng cắt bổ (shear) cùng nhau đã tạo thành bồn địa như hiện nay.[3]

Sụt lún Biển Chết

Nơi thấp nhất ở đất liền, sụt lún Biển Chết (Dead Sea depression) lún xuống 400 mét (1300 feet) dưới mức mặt biển. Những con sông được biết đến trong khu vực, thỉnh thoảng khi trời mưa, các con sông chảy vào biển nhỏ, nhưng chủ yếu là sông Jordan chảy từ phía bắc. Khí hậu cực kì khô, sự dẫn dòng của sông nhánh với nhiều mục đích sử dụng cho con người, và kế hoạch bay hơi muối lớn ở vùng biển phía nam đã dẫn đến sự sụt giảm mạnh ở mức mặt biển. Ngày nay, bán đảo Lisan (phía dưới trung tâm) tạo thành một cây cầu lục địa (land bridge) thông suốt Biển Chết, phần phía nam bồn địa được cắt từ phía bắc, và nó được sử dụng để bay hơi muốikhoáng chất từ nước.

Sụt lún Biển Chết xảy ra ở vùng đứt gãy, nơi mảng Ả Rập ở phía đông đang kéo về phía bắc, cách xa mảng châu Phi ở phía tây. Cao địa (highland) và cao nguyên (plateaus) ở hai bên đường đứt gãy (rift) kết thúc trên dốc đứng tại bờ biển. Cảnh quan xanh ở phía đông biển Chết cho thấy nơi đây có lượng mưa nhiều hơn Bờ Tây, là nơi cháy nắng và khô cằn.

Jordan về phía đông Biển Chết, lũng tách giãn từ biển Galilee ở phía bắc một mạch đến vịnh Aqaba ở phía nam được gọi là vùng Ghor. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc báo cáo do sự tồn tại của thuỷ lợi nên vùng Ghor là một trong những khu vực nông nghiệp quan trọng nhất khắp cả vùng. Rau cỏ, quả cam chanhchuối là loại cây phổ biến nhất.[4]

Tham khảo

  1. ^ a b 王瑞菊,邓宏文,郭建宇. 珠一坳陷古近系典型凹陷类比分析[J]. 内蒙古石油化工,2008,34(21):108-112.
  2. ^ “Modeling the Jiyang Depression, Northern China, Using a Wave-Field Extrapolation Finite-Difference Method and Waveform Inversion”. pubs.geoscienceworld.org. GeoScience World. ngày 01 tháng 06 năm 2004. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày tháng= (trợ giúp)
  3. ^ 邱楠生,苏向光,李兆影,柳忠泉,李政. 济阳坳陷新生代构造-热演化历史研究[J]. 地球物理学报,2006,(04):1127-1135.
  4. ^ “The Dead Sea depression”. https://www.nasa.gov. NASA Content Administrator. ngày 23 tháng 03 năm 2008. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)