Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Samurai”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up
nKhông có tóm lược sửa đổi
 
(Không hiển thị 14 phiên bản của 14 người dùng ở giữa)
Dòng 1:
[[Tập tin:Samurai.jpg|nhỏ|phải|240px|Võ sĩ Nhật trong bộ giáp đi trận - do [[Felice Beato]] chụp (khoảng [[1860]])]]
{{Nihongo|'''Samurai''' ({{Ja-jrhv|j=侍|r|hanviet=SamuraiThị|hvkyu=thị|hg=さむらい|kk=サムライ|}}) có hai nghĩa. Theo nghĩa thứ nhất, samurai là một bộ phận của tầng lớp võ sĩ Nhật Bản, là thuộc hạ của các [[shōgun|shogun]], [[daimyō|daimyo]], và đứng trên một số bộ phận võ sĩ khác. Samurai theo nghĩa này là cách hiểu ở [[Nhật Bản]]. Theo nghĩa thứ hai và được sử dụng phổ biến trên [[thế giới]] ngoài Nhật Bản, samurai chính là tầng lớp {{Nihongo|võ sĩ ({{Ja-jrhv|j=武士|r=bushi|hvhanviet=võ sĩ|kyu=|hg=ぶし|kk=|}}) của Nhật Bản, tức là bao gồm cả cả shogun và daimyo.
 
Bài này nói về samurai theo nghĩa thứ hai.
 
== Từ nguyên ==
Từ samurai có gốc từ chữ ''saburau'' (さ守らう) - nghĩa là người coichăm sóc, bảo vệ, phục vụ - nhưng mang tính chất quyền quý.
 
== Lịch sử ==
Dòng 13:
[[Tập tin:KofunCuirass.jpg|nhỏ|240px|phải|Mũ và giáp sắt với binh phù [[thời đại Kofun]], [[thế kỷ 5]]. Bảo tàng viện Quốc gia [[Tōkyō|Tokyo]]]]
 
Đầu [[thời kỳ Heian|thời Heian]] (平安時代 | Bình An thời đạiB) (cuối [[thế kỷ 8|thế kỷ thứ 8]] và đầu [[thế kỷ 9|thế kỷ thứ 9]]), với tham vọng bành trướng lãnh thổ về phía Bắc [[Đảo Honshu|Honshū]] để củng cố quyền lực, [[Thiên hoàng Kammu]] (桓武天皇, Hoàn Vũ Thiên hoàng) đã cho quân đến đàn áp phiến quân [[Emishi]] nhưng đội quân của ông thất thủ do thiếu kỷ luật và ý chí chiến đấu. Vì vậy, Thiên hoàng Kammu bắt đầu dựa dẫm vào các thế lực địa phương và chiêu dụ họ, phong cho chức ''Seiitaishogun'' (征夷大将軍, Chinh di Đại tướng quân) hay gọi tắt là ''[[shōgun|shogun]]'' (tướng quân). Với đội quân tinh thông về cưỡi ngựa và [[bắn cung]] (''kyudo''-弓道, Cung đạo), các thế lực này trở thành công cụ đắc lực để đàn áp quân nổi loạn cho Thiên hoàng. Dù các võ sĩ này ít nhiều đều được học hành nhưng lúc bấy giờ (thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9) trong mắt triều đình Thiên hoàng họ chỉ là những võ phu thô lỗ thất học không hơn không kém.
 
Cứ như vậy, cuối cùng, Thiên hoàng Kammu đã giải tán quân đội triều đình, từ đó thế lực của Thiên hoàng từng bước một suy sụp. Trong khi Thiên hoàng vẫn còn cai trị, các thị tộc ở [[Kyōto (thành phố)|Kyoto]] (京都, Kinh Đô) đã nắm trong tay một số chức vụ quan trọng như bộ trưởng, còn những người thân của họ dùng tiền mua lấy các chức quan trong tòa án. Để vơ vét của cải làm giàu và trả nợ cho mình, các quan tòa này thường xuyên đánh thuế nặng nề, khiến cho nhiều nhà nông mất hết ruộng đất. Trước sự đe dọa của nạn trộm cướp ngày càng tăng, các thị tộc bắt đầu tuyển mộ những người tha hương trên vùng đồng bằng Kanto, huấn luyện họ kỹ càng về võ thuật và đào tạo họ trở thành đội ngũ lính canh rất thiện chiến. Một số người có nhiệm vụ hộ tống các quan thu thuế, và chỉ sự hiện diện của họ thôi cũng đủ cho vị quan thu thuế này an toàn trước bọn trộm cướp. Họ được gọi là những "samurai", hay những thị vệ có vũ trang, nhưng lực lượng đầy tớ này nhanh chóng trở thành một thế lực vũ trang độc quyền. Thông qua những hợp đồng bảo vệ và các cuộc hôn nhân vì mục đích chính trị, họ dần dần giành được thế lực trong giới chính trị, và cuối cùng còn qua mặt cả giai cấp quý tộc truyền thống.
Dòng 28:
Ban đầu các chiến binh này chỉ là tay sai của các lãnh chúa và các dòng họ quý tộc (公家 ''[[kuge]]''), nhưng dần dần, họ từng bước giành lấy quyền lực để lật đổ tầng lớp thống trị và lập ra chính quyền thống trị samurai đầu tiên trong lịch sử.
 
Khi các quý tộc địa phương đã chuẩn bị đầy đủ về lực lượng, lương thực, khí giới, họ liên minh với nhau với một tổ chức có phân cấp bậc, địa vị rõ ràng, đứng đầu là ''toryo'', hay thủ lĩnh. Người thủ lĩnh này đặc biệt phải là họ hàng xa của Thiên hoàng, hay ít nhất cũng thuộc một trong ba dòng họ quý tộc ([[Gia tộc Fujiwara|Fujiwara]], [[Gia tộc Minamoto|Minamoto]] và [[Gia tộc Taira|Taira]]). Ban đầu các ''toryo'' được triều đình phong làm quan phủ ở các tỉnh lỵ trong thời hạn 4 năm, nhưng sau khi mãn nhiệm kỳ các ''toryo'' chẳng những không quay về kinh đô mà còn đem chức quan đó ra làm một thứ tài sản thừa kế cho thế hệ sau (theo kiểu cha truyền con nối) để tiếp tục lãnh đạo quý tộc địa phương đàn áp các cuộc nổi loạn trên khắp nước Nhật vào khoảng giữa và cuối thời Heian.
 
[[Tập tin:DanNoUraBattle-of-Akama-Strait-at-Dan-no-Ura-in-Choshu-1185.jpgpng|nhỏ|240px|Võ sĩ đánh nhau trong trận [[Dan-no-Ura]] năm [[1185]]]]
Nhờ binh lực hùng mạnh và tài lực vững chắc, đội quân của các quý tộc sau cùng đã trở thành một thế lực quân đội mới của triều đình. Quyền lực của họ đã được củng cố vững chắc sau [[cuộc nổi loạn Hōgen]] vào cuối thời Heian; và cũng từ đó mà dẫn đến hậu quả là sự đối đầu của hai gia tộc thù địch nhau Minamoto và Taira, trong [[cuộc nổi dậy Heiji]] vào năm [[1160]].
 
Sau nhiều chiến thắng vang dội, tướng [[Taira no Kiyomori]] trở thành chiến binh đầu tiên vươn tới chức Thiên hoàng quân sư, thậm chí nắm trong tay chính quyền trung ương, lập ra chính quyền thống trị samurai đầu tiên và biến Thiên hoàng thành một đấng quân vương bù nhìn. Dù vậy, dòng họ Taira vẫn tỏ ra khoan hòa, thận trọng trong quan hệ với dòng họ Minamoto; thay vì mở rộng và củng cố quân đội của mình, dòng họ Taira đã áp dụng chiêu "mỹ nhân kế", đưa những phụ nữ trong gia tộc tiến cung và lợi dụng họ giành lấy quyền hành từ tay Thiên hoàng.
 
Hai dòng họ Taira-Minamoto lại tiếp tục đối đầu nhau vào năm [[1180]] với [[chiến tranh Genpei]] và kéo dài đến năm [[1185]]. Chiến thắng của [[Minamoto no Yoritomo]] đã cho thấy sự thất bại của quý tộc trước các chiến binh samurai. Năm [[1190]] Yoritomo đến Kyoto; năm [[1192]] trở thành [[Shōgun|Seii Taishogun]] (chính dị đại tướng quân), thành lập chế độ Mạc phủ Kamakura [[Shogun Kamakura|Mạc phủ Kamakura]] hay Kamakura Bokufu, dời đô từ Kyoto về [[Kamakura, Kanagawa|Kamakura]], gần căn cứ quân đội của ông. ''Bakufu'' có nghĩa là "chính quyền lều trại", bởi hiện thời chính quyền mang tính chất là chính quyền quân sự và quân đội đều sống trong các khu lều trại.
 
Thời gian qua đi, dòng dõi samurai trở thành các chiến binh quý tộc (''[[buke]]''), trên danh nghĩa chỉ thuộc quyền cai quản của quý tộc triều đình. Khi các samurai bắt đầu học các thú tiêu khiển theo kiểu quý tộc như thư đạo, thi ca... thì các nhà quý tộc, ngược lại, bắt đầu sống theo kiểu samurai. Trải qua hàng loạt mưu đồ và những thời đại trị vì ngắn ngủi của các vị hoàng đế khác nhau, quyền lực thật sự giờ đây nằm trong tay các shogun và các samurai.
 
=== Mạc phủ Ashikaga và thời phong kiến ===
Các dòng tộc samurai lao vào các cuộc tranh giành quyền lực diễn ra suốt thời [[Kamakura Shogunate|Mạc phủ Kamakura]] và [[Ashikaga Shogunate|Mạc phủ Ashikaga]].
 
[[Thiền tông|Phật giáo Thiền tông]] được truyền bá rộng rãi trong giới samurai vào [[thế kỷ 13]], giúp các võ sĩ gò mình vào khuôn mẫu đạo đức và vượt qua nỗi sợ hãi về giết chóc, nhưng tôn giáo phổ biến trong quần chúng nhân dân lại là [[Tịnh độ tông|Tịnh Độ Tông]].
 
[[Tập tin:Mōko Shūrai Ekotoba.jpg|nhỏ|400px|Samurai Suenaga phản kháng khi Mông Cổ tấn công Nhật. Moko Shurai Ekotoba (蒙古襲来絵詞), khoảng năm [[1293]]]]
Năm 1274, [[nhà Nguyên]] đưa quân xâm lược Nhật Bản với 40.000 quân và 900 thuyền chiến tấn công từ phía bắc [[Kyushu]]. Nước Nhật chỉ đưa vỏn vẹn 10.000 võ sĩ samurai để đối phó. Mặt khác, quân xâm lược cũng bị choáng váng ít nhiều sau những trận dông bão trước khi bị các samurai giáng cho một đòn nặng nề. Quân Nguyên rút lui; cuộc xâm lược chấm dứt. Chiến thắng này được ghi nhớ bởi quân xâm lược [[Mông Cổ]] cũng sử dụng loại bom nhỏ mà sau này được cải tiến thành bom và thuốc súng của quân Nhật.
 
Quân Nhật nhận thấy sẽ lại có một cuộc xâm lăng mới, và bắt đầu xây dựng một phòng tuyến bằng đá quanh vịnh Hakata vào năm 1276. Hoàn thành năm 1277, phòng tuyến này trải dài 20  km dọc theo bờ biển, sau này trở thành căn cứ phòng vệ trọng yếu trước sự xâm lược của quân Mông. Người Mông Cổ cố gắng dàn xếp vấn đề bằng đường lối ngoại giao suốt những năm 1275-1279, nhưng mỗi vị sứ giả được cử đưa đến Nhật đều bị xử tử.
 
[[Tập tin:Mooko-HakataWall.jpg|nhỏ|240px|Trong trận đánh tạo [[Hakata-ku, Fukuoka]]. Moko Shurai Ekotoba, (蒙古襲来絵詞) khoảng 1293]]
Năm 1281, nhà Nguyên tiếp tục xâm lược Nhật Bản với đội quân 140.000 người và 4.400 thuyền chiến. Miền Bắc [[Kyushu]] được canh phòng với đội quân phòng vệ 40.000 người. Quân Mông chưa kịp hành quân vào đất liền thì gặp ngay một cơn bão to khi đổ bộ vào một hòn đảo ở KyushyKyushu, tổn thất nặng nề. Một lần nữa quân Mông phải rút chạy sau những đợt phản kháng của quân Nhật ở phòng tuyến vịnh Hakara.
 
Những cơn dông năm 1274 và trận bão to năm 1281 đã giúp cho các samurai đẩy lùi quân xâm lược Mông Cổ dù chênh lệch về lực lượng rất lớn. Những trận gió này được biết đến với cái tên ''kami-no-kaze'', tức "thần phong", và càng khắc sâu niềm tin của người Nhật rằng đất nước của họ thuộc về thần thánh và được bảo vệ bởi các thế lực siêu nhiên.
Dòng 75:
[[Oda Nobunaga]] là lãnh chúa vùng [[Nagoya, Aichi|Nagoya]] (trước đây là [[Tỉnh Owari]]) và là một samurai kiệt xuất của [[Thời kỳ Chiến Quốc (Nhật Bản)|Thời kỳ Chiến quốc]]. Ông đã thống nhất các lãnh chúa trên toàn lãnh thổ Nhật Bản và lập nên một nước Nhật Bản thống nhất.
 
Oda Nobunaga đã làm một cuộc cải cách trong chiến lược và tổ chức quân đội, cho sản xuất [[súng trường hạng nặng]], chú trọng đổi mới thương và công nghiệp. Những chiến thắng nối tiếp nhau trở thành bàn đạp cho quân đội của ông đạt đến mục tiêu lật đổ Mạc phủ Ashikaga và tước bỏ quyền lực quân sự của các tăng nhà chùabinh, châm ngòi cho các cuộc xung đột phù phiếm trong dân chúng suốt hàng thế kỉ. Tấn công vào cả nơi tôn nghiêm của các chùa miếu, họ trở thành vấn đề đau đầu của Thiên hoàng và bất cứ vị lãnh chứachúa nào muốn kiểm soát tầm ảnh hưởng của họ. Oda Nobunaga mất năm [[1582]] khi tướng dưới quyền [[Akechi Mitsuhide]] cùng các thế lực phản nghịch nổi dậy chống lại ông.
 
[[Tập tin:Hasekura in Rome.JPG|nhỏ|180px|Samurai [[Hasekura Tsunenaga]], Roma, [[1615]], Coll. Borghese, [[Roma]]]]
Dòng 94:
 
== Samurai lừng danh ==
* [[Sanada Yukimura|Yukimura Sanada]]
* [[Date Masamune]]
* [[Akechi Mitsuhide]]
Dòng 102:
* [[Minamoto Yoshiie]]
* [[Saigō Takamori|Saigo Takamori]]
* [[Shiba Takeru]]
 
== Xem thêm ==
Hàng 109 ⟶ 108:
{{wiktionary|侍}}
{{thể loại Commons|Samurai}}
* [[Onna-bugeisha]]: Nữ chiến binh hay là nữ samurai
* [[Hiệp sĩ]]
* [[iki (aesthetic ideal)|Iki]]
Dòng 126:
 
== Chú thích ==
{{Tham khảo|230em}}
 
== Phim về Samurai ==
Dòng 144:
* [[Yojimbo (phim)|Yojimbo]]
* [[Samurai Sentai Shinkenger]]
* [[47 Ronin]]
 
== Liên kết ngoài ==
* [http://www.sengokudaimyo.com/ SengokuDaimyo.com] The website of Samurai Author and Historian
* [http://split-kitty.com/misc/Hagakure/ ''Hagakure: The Book of the Samurai'' online] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20060829140418/http://split-kitty.com/misc/hagakure/ |date=2006-08-29 }}
* [http://www.samurai-archives.com The Samurai Archives Japanese History page]
* [http://english.tsukudo.jp/ The God of Samurai]
Hàng 159 ⟶ 160:
[[Thể loại:Chiến binh Nhật Bản]]
[[Thể loại:Tước hiệu quý tộc]]
[[Thể loại:Nghề nghiệp chiến đấu]]
[[Thể loại:Nghề nghiệp lỗi thời]]