Khác biệt giữa bản sửa đổi của “The Weeknd”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
Bổ sung nd
Thẻ: Đã bị lùi lại Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 48:
}}
}}
| tên khác = Tuấn Cùi
}}
'''Abel Tesfaye''' (sinh ngày 16 tháng 2 năm 1990), tên nghệ danh là '''The Weeknd''' Tuấn Cùi (phát âm giống từ weekend), là một ca sĩ kiêm nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc người [[Canada]], anh được sinh ra tại thành phố Toronto và lớn lên ở Scarborough. Tesfaye bắt đầu sáng tác âm nhạc vào năm 2009 bằng cách đăng tải một cách vô danh bài hát "Do It" lên trang mạng YouTube. Vào cuối năm 2010, một số bài hát của Tesfaye được tải lên [[YouTube]] dưới cái tên "The Weeknd". Anh đã phát hành ba bản mix (9 track) trong suốt năm 2011: House of Balloons, Thursday and Echoes of Silence và được giới chuyên môn đánh giá cao.<ref name=happy>{{Chú thích web |url=http://www.metacritic.com/music/house-of-balloons/critic-reviews |tiêu đề=House of Balloons – The Weeknd |nhà xuất bản=[[Metacritic]] |ngày truy cập=ngày 16 tháng 3 năm 2012}}</ref> Trong năm kế tiếp, anh phát hành một album tổng hợp mang tên [[Trilogy (album của The Weeknd)|Trilogy]], bao gồm các bản mix trước đó đã được chỉnh sửa và ba bài hát mới thêm vào. Hãng [[Republic Records]] và XO đã phát hành độc quyền album này. Album thứ hai của Tesfaye, [[Beauty Behind the Madness]] trở thành album đầu tiên đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng [[Billboard 200]], với tốp 5 đĩa đơn chính bao gồm: "[[Earned It]]", "[[The Hills (bài hát)|The Hills]]" và single số một "[[Can't Feel My Face]]". Cả ba bài hát trên đều lần lượt giữ cả ba vị trí dẫn đầu của [[Bảng xếp hạng Billboard]] [[Hot R&B]], khiến Tesfaye trở thành người đầu tiên trong lịch sử đạt được thành tích này.<ref name=alone>[http://music.cbc.ca/#!/blogs/2015/7/Alone-on-the-podium-The-Weeknd-becomes-first-artist-to-take-over-Billboard-RB-chart "Alone on the podium: The Weeknd becomes first artist to take over Billboard R&B chart"]. [[CBC Music]], ngày 17 tháng 7 năm 2015.</ref>
 
Album thứ ba của Tesfaye ''[[Starboy (album)|Starboy]]'' (2016) cũng thành công tương tự như album trước với đĩa đơn [[Starboy (bài hát)|trùng tên]] đạt vị trí quán quân bảng xếp hạng, đạt được giải thưởng Album Thành thị Đương đại Xuất sắc nhất tại lễ trao giải [[Giải Grammy lần thứ 60|Grammy Awards năm 2018]]. Album thứ tư của Tesfaye, ''[[After Hours (album của The Weeknd)|After Hours]]'' (2020) đem lại cho anh những đĩa đơn ở vị trí quán quân bảng xếp hạng ''Billboard'' Hot 100 "[[Heartless (bài hát của The Weeknd)|Heartless]]", "[[Save Your Tears]]", và "[[Blinding Lights]]". Bài hát "Blinding Lights" lần đầu tiên trong lịch sử bảng xếp hạng này dành đến hơn một năm nằm trong top 10,<ref>{{Chú thích web |title=After Hours by The Weeknd reviews |url=http://www.anydecentmusic.com/review/11323/The-Weeknd-After-Hours.aspx |url-status=live |archive-url=https://web.archive.org/web/20200321080316/http://www.anydecentmusic.com/review/11323/The-Weeknd-After-Hours.aspx |archive-date=March 21, 2020 |website=[[AnyDecentMusic?]]}}</ref><ref>{{Chú thích báo |last=Trust |first=Gary |date=ngày 8 tháng 3 năm 2021 |title=Olivia Rodrigo's 'Drivers License' Leads Hot 100 for 8th Week, The Weeknd's 'Blinding Lights' Marks a Year in Top 10 |work=[[Billboard (magazine)|Billboard]] |url=https://www.billboard.com/articles/news/9536569/olivia-rodrigo-drivers-license-number-one-eighth-week-hot-100 |archive-date=ngày 8 tháng 3 năm 2021}}</ref> và là bài hát được phát nhiều nhất trên nền tảng [[Spotify]] năm 2020.<ref>{{Chú thích báo | url=https://variety.com/2020/music/news/spotify-wrapped-bad-bunny-the-weeknd-1234842495/ | title=Bad Bunny, The Weeknd Top Spotify's Year-End 'Wrapped' Lists | first=Jem | last=Aswad | work=[[Variety (magazine)|Variety]] | date=ngày 30 tháng 11 năm 2020}}</ref>