Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ethiopia”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.7.3) (Bot: Thêm gu:ઇથિયોપિયા
Nallimbot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.3) (Bot: Đổi ckb:ئەتیۆپیا thành ckb:ئیتیۆپیا
Dòng 418: Dòng 418:
[[szl:Etjopijo]]
[[szl:Etjopijo]]
[[so:Itoobiya]]
[[so:Itoobiya]]
[[ckb:ئەتیۆپیا]]
[[ckb:ئیتیۆپیا]]
[[sr:Етиопија]]
[[sr:Етиопија]]
[[sh:Etiopija]]
[[sh:Etiopija]]

Phiên bản lúc 15:23, ngày 23 tháng 2 năm 2013

Thông tin khác
HDI?0,367
thấp

Cộng hòa Dân chủ Liên bang Ethiopia (Tiếng Việt: Cộng hòa Dân chủ Liên bang Ê-ti-ô-pi-a[1]) là một đất nước ở phía đông châu Phi. Phía bắc giáp Eritrea, phía đông bắc giáp Djibouti, phía đông giáp Somalia, giáp SudanNam Sudan ở phía tây, và phía nam giáp Kenya.

Trong hầu hết chiều dài lịch sử, Ethiopia theo chế độ quân chủ lập hiến, và dấu vết về triều đại ở Ethiopia bắt đầu từ thế kỷ 2 TCN.[2] Ethiopia cũng là một trong những địa điểm cổ nhất mà con người từng sinh sống.[3] Nơi đây có thể là khu vực mà những người Homo sapiens xây dựng nên Trung Đông đầu tiên và các điểm xung quanh đó.[4][5][6] Bên cạnh La Mã, Trung Quốc và Ba Tư, Đế quốc Aksum của Ethiopia được xem là một trong 4 quốc gia có sức mạnh lớn nhất thế giới vào thế kỷ thứ 3.[7][8][9] Trong suốt thời kỳ Tranh giành châu Phi, Ethiopia là quốc gia châu Phi duy nhất bên cạnh Liberia giữ vững được chủ quyền là một quốc gia độc lập, và là một trong 4 thành viên châu Phi thuộc Hội Quốc Liên. Sau một giai đoạn ngắn bị người Ý chiếm đóng, Ethiopia trở thành thành viên sáng lập của Liên hiệp quốc. Khi các quốc gia khác được trao trả độc lập sau thế chiến thứ 2, một số quốc gia đó sử dụng màu cờ của Ethiopia, và Addis Ababa trở thành nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế ở châu Phi.

Ethiopia là quốc gia có tiềm năng thủy điện lớn thứ 2 ở châu Phi,[10] với hơn 85% nguồn nước có từ các dòng của sông Nile, và có đất đai màu mở nhưng quốc gia này từng trải qua hàng loại các đợt đói trong thập niên 1980, và các đợt nó này càng trở nên trầm trọng hơn bởi ảnh hưởng của địa chính trị và các cuộc nội chiến, làm cho hàng trăm ngàn người chết.[11] Tuy nhiên, quốc gia này đã bắt đầu hồi phục một cách chậm chạm, và Ethiopia ngày nay là nền kinh tế lớn nhất Đông và Trung Phi tính theo GDP.[12][13][14] và là một trong những nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất trên thế giới. Quốc gia này nắm nhiều quyền lực trong vùng sừng châu Phi và đông Phi.[15][16][17][18][19] Gần đây, vi phạm nhân quyền dưới ở Ethiopia thời thủ tướng Meles Zenawi đã được báo cáo, mặc dù quốc gia này có quyền lực chính trị, ngoại giao và kinh tế dẫn đầu ở châu Phi.[20][21][22]

Tên gọi

Lịch sử

Cổ đại

Cuối thế kỷ 1 TCN, trên bờ Hồng Hải châu Phi xuất hiện vương quốc Aksum của dân tộc Sabae ( tiếng Do Thái cổ là Sheba). Quốc gia do dòng họ Solomon cai quản, họ gọi mình là dòng dõi trực tiếp của thánh đế Solomon và hoàng hậu Saba ( Sheba ). Kitô giáo trở thành giáo hội quốc gia của vương quốc Aksum vào thế kỷ thứ 4 dưới thời vua 'Ezana, khiến đây là nơi thứ 3 trên thế giới công nhận Kitô giáo là quốc giáo, sau ArmeniaGruzia. Từ thế kỷ 7, vương quốc dần dần mất đi sự hùng mạnh và ảnh hưởng của mình, đồng thời mất cả lãnh thổ.

Đầu thế kỷ 10, dòng họ Solomon bị triều đại Zagve lật đổ, đó là những người cai quản vùng Lasta cũng trên cao nguyên Ethiopia. Khoảng năm 1260, dòng họ Solomon giành được quyền lực trên phần lớn Ethiopia, nhưng các tín đồ Hồi giáo vẫn kiểm soát vùng bờ biển và miền đông nam. Trong thời gian thống trị của Zara Jacob ( năm 1434 – 1468) việc quản lý giáo hội Ethiopia được cải tổ. Lúc đó đã xuất hiện hệ thống chính trị đặc trưng cho quyền lực của tuyệt đối của quốc vương, những nét căn bản của hệ thống này được gìn giữ cho đến giữa thế kỷ 20.

Khi những tín đồ Islam Harera xâm nhập vào Ethiopia ( năm 1527), hoàng đế, giờ đây các nhà cầm quyền bắt đầu gọi như vậy, cầu cứu những người Tây Ban Nha. Nhờ sự giúp đỡ của họ, Ethiopia giành được quyền chiến thắng vào năm 1542, sự cố gắng của nhà truyền giáo dòng Tên định hướng hoàng đế theo Công giáo Rôma đã không thành công.

Vài thế kỷ tiếp theo (thế kỷ 17 – 19), được đánh dấu là những thời kỳ thịnh vượng của nền văn hóa dân tộc. Trong đó, những truyền thống Hồi giáoKitô giáo kết hợp một cách đáng ngạc nhiên. Có những thời kỳ dài bất ổn định và phân tán, trong những năm nặng nề này, giáo hội là sức mạnh liên kết chủ yếu.

Trong những năm 1870 của thế kỷ 19, kẻ thù chính của đế quốc ( lúc này là các nhóm quốc gia bán độc lập) là Ai Cập. Năm 1875 Ai Cập và những tín đồ Islam Harera cùng tấn công Ethiopia từ phía bắc và phía đông. Cuộc tấn công bị chặn lại nhưng Ai Cập vẫn tiếp tục chiếm đóng các cảng ở Hồng Hải và ở Somalia, gây khó khăn trong việc cung cấp cho quân đội Ethiopia và cả dân thường. Năm 1898 hoàng đế Joan IV mất trong một cuộc xung đột quân sự với Sudan. Hoàng đế mới là Menelic đã sáp nhập vào Ethiopia những lãnh thổ mới và thành lập thủ đô mới Addis Ababa.

Cùng với sự khai mở kênh đào Suez, năm 1869 các thủ lĩnh châu Âu chú ý đến bờ dải Hồng Hải. Năm 1872, Ý chiếm cảng Aseb và năm 1885 chiếm Massau. Năm 1895, giữa Ý và Ethiopia nổ ra cuộc chiến tranh, kết cuộc là Ý thất bại vào năm sau ở Adua.

Năm 1930, Tafari Maconnen lên ngôi, tuyên bố mình là hoàng đế Haile Selassie I. Đồng thời phát xít Ý chuẩn bị cuộc xâm lược mới. Năm 1935, Ý bắt đầu chiếm Ethiopia. Năm sau Mussolini tuyên bố vua Victor Emmanuel III là hoàng đế của Ethiopia.

Haile Selassie buộc phải rời bỏ đất nước, nhưng năm 1941 ông trở lại ngai vàng sau khi quân đội Anh và Ehtiopia thắng quân Ý. Theo quyết định của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1942 Ethiopia, thuộc địa cũ của Ý sáp nhập vào Ethiopia.

Trong những năm 1960 và 1970, sau khi củng cố quyền lực của mình trong nước, Haile Selassie chú ý đến các vấn đề quốc tế. Ông đóng vai trò quan trọng torng việc thành lập khối châu Phi thống nhất, trong cuộc tiến hành nhiều cuộc đàm phán thế giới giữa các quốc gia thù địch của đại lục. Hơn nữa, chính Ethiopia lúc này đang chiến tranh với Somalia (năm 1964) xung đột với Sudan ( năm 19651967). Nghèo đói, bất bình đẳng xã hội bao trùm cả nước, tình trạng biển thủ công quỹ phát triển. Bổ xung thêm cho các tai họa là nạn hạn hán khủng khiếp năm 19721975.

Năm 1974, phái quân sự loại Haile Selassie khỏi chính quyền, chế độ quân chủ bị tiêu diệt và Ethiopia trở thành nước cộng hòa.

Năm 19761977, nhân vật chính trị chủ yếu của Ethiopia là đại tá Mengistu Haile Mariam. Năm 1984, Ethiopia trở thành quốc gia theo hướng chủ nghĩa xã hội và Mengistu là tổng bí thư của Đảng Công nhân vừa tái lập. Đầu những năm 1990, do chấm dứt sự giúp đỡ của Liên Xô, vị trí của Mengistu lung lay nghiêm trọng. Năm 1990, những người chống đối từ tỉnh Tigre ( Mặt trận cách mạng Dân chủ Nhân dân Ethiopia) và những người phân lập từ Eritrea kiểm soát các tỉnh miền bắc đất nước. Năm 1991, những người khởi nghĩa chiếm Addis Ababa. Năm 1993, Eritrea tuyên bố độc lập. Một năm sau mặt trận Cách Mạng Dân Chủ Nhân Dân Ethiopia giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử ở Hội đồng hiến pháp. Tên gọi của đất nước và cả đường lối chính trị được thay đổi.

Vương triều Selassie

Thời kì Cộng sản

Vào những năm 1970 của thế kỉ XX, nước Ethiopia lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội sâu sắc. Ethiopia diễn ra nạn đói nhiều năm làm nhiều người bị chết. Trong khi đó, Hoa Kì cũng xâm nhập mạnh mẽ vào Ethiopia. Ngày 13 tháng 2 năm 1971, nhân dân thủ đô Addis Ababa xuống đường biểu tình chống lại chính phủ của Hoàng đế Haile Selassie I. Phong trào ủng hộ lan rộng ra khắp cả nước. Tháng 2 năm 1974, được sự ủng hộ của nhân dân, các lực lượng quân đội bắt giữ Hoàng đế và cả triều đình, chính quyền về tay Ủy ban phối hợp các Lực lượng vũ trang. Ủy ban phối hợp các Lực lượng vũ trang và sau đó là Hội đồng Quân chính lâm thời đã tịch thu toàn bộ tài sản nhà vua như các lâu đài, cung điện...

Tháng 9 năm 1974, Hội đồng Quân chính lâm thời được thành lập thay cho Ủy ban phối hợp các Lực lượng vũ trang do lãnh tụ cuộc cách mạng là Mengistu Haile Mariam làm chủ tịch Hội đồng Quân chính lâm thời có nhiệm vụ như là một chính phủ lâm thời.

Hội đồng Quân sự Hành chính Lâm thời đã công bố bản "Hiến pháp", theo đó Ethiopia theo chủ nghĩa xã hội và thời kì 1974 đến 1987, thế giới quen gọi Ethiopia là nước Ethiopia xã hội chủ nghĩa.

Năm 1987, Ethiopia đổi tên là Cộng hòa Dân chủ nhân dân Ethiopia và thay đổi về hệ thống chính trị với cương vị lãnh đạo nhà nước là Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Ethiopia nhưng cương vị này đến khi bị bãi bỏ vẫn do Nguyên Chủ tịch Hội đồng Quân chính lâm thời nắm giữ.

Về một số chính sách của Ban lãnh đạo Nhà nước đã xây dựng những trại định cư cho nhân dân ở những nơi có nguồn nước và đặc biệt hơn cả là chống lại sự xâm lược của quân Somalia. Nhưng những vấn đề về nông nghiệp vẫn không được Nhà nước chú ý và quan tâm đúng mức.

Nhà nước này còn tiến hành cuộc Khủng bố Đỏ giết hại hàng chục nghìn người.

Đó là nguyên nhân của những cuộc nổi dậy của các lực lượng chống đói. Đặc biệt là vào tháng 5 năm 1991, sau khi nhiều nước xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ, các cuộc nổi dậy tiến sát vào thủ đô Addis Ababa. Trước tình hình đó Mengistu tuyên bố từ bỏ chức vụ và lưu vong sang Zimbabwe. Các lực lượng chống đối lên nắm chính quyền, thay đổi quốc hiệu, quốc huy, quốc khánh thiết lập nhà nước tư sản.

Chính trị

Xem bài Chính trị Ethiopi thời kì Quân chính và Cộng sản

Ethiopia đã từng theo Xã hội chủ nghĩa và là thành viên của phe này, có tên là nước Ethiopi xã hội chủ nghĩa (đến năm 1987, sau cải cách chính trị và sự thông qua Hiến pháp mới, đổi tên nước là Cộng hoà Dân chủ nhân dân Ethiopi), có quan hệ với Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa khác. Và cũng đứng về phía Liên Xô trong thời kì Trung - Xô chia rẽ. Đã là quan sát viên của SEV với Lào, Triều Tiên, Nam Tư và Angiêri. Sau khi Liên Xô và các quốc gia Đông Âu sụp đổ, Ethiopia cũng thay đổi hệ thống chính trị, thực hiện đa nguyên đa đảng về chính trị, áp dụng nền kinh tế thị trường.

Chính thể Cộng hòa Tổng thống.

Khu vực hành chính 9 vùng được phân chia dựa trên các nhóm sắc tộc và 2 thành phố đặc quyền.

Hiến pháp Thông qua tháng 12-1994.

Cơ quan hành pháp Đứng đầu Nhà nước là Tổng thống. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Tổng thống do Hạ viện bầu, nhiệm kì 6 năm; Thủ tướng do đảng cầm quyền chỉ định.

Cơ quan lập pháp Quốc hội lưỡng viện: Thượng viện gồm 117 thành viên, do Quốc hội các bang lựa chọn, nhiệm kì 5 năm. Hạ viện gồm 548 thành viên, được bầu theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 5 năm.

Cơ quan tư pháp Tòa án Liên bang Tối cao. Chánh và phó tòa do Thủ tướng đề nghị và Hạ viện phê duyệt; các thẩm phán khác do Hội đồng luật pháp liên bang lựa chọn các ứng cử viên, Thủ tướng trình danh sách các ứng cử viên này lên Hạ viện để phê duyệt.

Chế độ bầu cử Từ 18 tuổi trở lên, phổ thông đầu phiếu.

Tham gia các tổ chức quốc tế ACP, AfDB, AU, COMESA, FAO, G-24, G-77, IAEA, IBRD, ICAO, ICRM, IDA, IFAD, IFC, IFRCS, IGAD, ILO, IMF, IMO, Interpol, IOC, IOM (quan sát viên), IPU, ISO, ITSO, ITU, ITUC, MIGA, NAM, ONUB, OPCW, PCA, UN, UNCTAD, UNESCO, UNHCR, UNIDO, UNMIL, UNOCI, UNWTO, UPU, WCO, WFTU, WHO, WIPO, WMO, WTO (quan sát viên)

Địa lý

Địa hình

Với diện tích 435.071 dặm vuông Anh (1.126.829 km2),[23] Ethiopia là quốc gia rộng hàng 27 trên thế giới, tương đương với kích thước của Bolivia. Quốc gia này nằm giữa vĩ độ 3°B và 15°B, và kinh độ 33°Đ và 48°Đ.

Ethiopia năm ở Đông Phi, Bắc giáp Eritrea, Nam giáp Kenya, Đông giáp DjiboutiSomalia, Tây giáp Sudan.

Hơn một nửa lãnh thổ của Ethiopia là cao nguyên Ethiop (cao trung bình 1.600 – 2.000m), bị nhiều sông và hẻm sâu xuyên cắt. Cao nguyên bị cắt ngang bởi thung lũng Lớn – vùng đứt gãy của vỏ trái đất. Trong phạm vi của thung lũng Lớn có vào hồ kiến tạo lớn ( Tana, Turcana và các hồ khác), những núi cao nhất cũng nằm ở đây ( núi Ras – Dashen, 4.620m). Vùng lũng hẹp dài Rift Valley gồm một số hồ rải rác và sông Awash kéo dài theo hướng Đông Bắc-Tây Nam, chia vùng cao nguyên Tây Bắc và khối núi Harar. Các vùng đồng bằng ngoại biên phần lớn là sa mạc.

  • Khí hậu : Vùng phía Bắc và phía Đông có khí hậu rất nóng, vùng cao nguyênnúi có khí hậu ôn hòa hơn.
  • Môi trường : Nạn phá rừng; đất bị xói mòn; tình trạng chăn thả quá mức; thiếu đồng cỏ; sa mạc hóa; nạn đói.

Khí hậu

Đối nội

Sau khi lên nắm quyền, Mặt trận Cách mạng Dân chủ nhân dân Ethiopia (EPRDF) chủ trương hoà giải dân tộc nhằm tạo sự ổn định, xây dựng lại đất nước và đã để cho Eritrea tuyên bố độc lập. Năm 2002, Ethiopia và Eritrea chấp thuận ký Hiệp định hòa bình tuân thủ phán quyết của Ủy Ban Quốc Tế về biên giới, theo đó xác định vùng đất Badme và một số vùng lãnh thổ ở khu vực biên giới giữa Ethiopi và Eritrea là thuộc chủ quyền của Eritrea, kết thúc chiến tranh kéo dài nhiều năm. Hai bên thành lập vùng đệm, do lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc kiểm soát. Nhưng đến năm 2005,tình hình lại có dấu hiệu căng thẳng trở lại vì Eritrea cho rằng Ethiopia đã không tuân thủ những cam kết trong Hiệp định. Để phản ứng lại thái độ thờ ơ của Liên Hợp quốc trước sự vi phạm Hiệp định của Ethiopia, tháng 10/2005, Chính phủ Eritrea đã ra lệnh cấm máy bay trực thăng vào không phận cũng như mọi phương tiện tuần tra của lực lượng gìn giữ hòa bình được hoạt động vào ban đêm trên lãnh thổ của mình. Hiện Liên Hiệp Quốc vẫn đang nỗ lực giải quyết tranh chấp này và đề nghị Eritrea rỡ bỏ lệnh cấm vận đối với lực lượng Liên Hiệp Quốc đang có mặt ở vùng biên giới Eritrea và Ethiopia.

Từ khi lên cầm quyền, chính phủ chuyển tiếp Ethiopia đã thông qua chính sách kinh tế chuyển tiếp ( TEP ). Nội dung chính là: hạn chế vai trò của Nhà nước, đề cao vai trò của tư bản tư nhân, khuyến khích viện trợ của bên ngoài. Chính sách này bước đầu đã gây được sự chú ý của các công ty nước ngoài, các nước EC đã quyết định tăng viện trợ cho Ethiopia. Tuy nhiên, kinh tế Ethiopia vẫn ở trong tình trạng rất khó khăn.

Đối ngoại

Ethiopia thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị và đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Ethiopia tranh thủ tối đa viện trợ của các nước để cứu đói và phục hồi kinh tế. Hiện nay, Ethiopia đã được nhiều nước phương Tây, Mỹ, Trung Quốc quan tâm giúp đỡ những hầu hết mới chỉ dưới hình thức viện trợ nhân đạo.

Ethiopia là nước Kitô giáo nằm giữa 2 nước Hồi giáo (Sudan, Somalia). Ethiopia lại có quan hệ khá mật thiết với Israel nên các nước Hồi giáo vừa gây sức ép, vừa tranh thủ Ethiopia. Libya muốn lôi kéo Ethiopia ra nhập Liên đoàn Ả Rập. Quan hệ Ethiopia với Sudan, Somalia khá căng thẳng và đã xẩy ra xung đột. Hai bên tố cáo nhau giúp đỡ lực lượng chống đối lật đổ chính quyền. Ethiopia và Somalia có tranh chấp về vùng Ogaden và đã nổ ra chiến tranh giữa hai nước.

Với vị trí trung tâm ở vùng Sừng Châu Phi, cửa ngõ của khu vực Đông phần châu Phi, Ethiopia là nơi đóng trụ sở của hơn 90 tổ chức quốc tế và khu vực như UN, UNDP, WB, AU...

Hành chính

Ethiopia được chia thành 11 bang :

  1. Addis Ababa
  2. Afar
  3. Amhara
  4. Benishangul-Gumuz
  5. Dire Dawa
  1. Gambela
  2. Harari
  3. Oromia
  4. Vùng Somali
  5. Southern Nations, Nationalities, and People's Region
  6. Tigray

Kinh tế

Mặc dầu có nhiều tiềm năng quan trọng, nhưng Ethiopia là một trong những nước nghèo và kém phát triển. 3/4 dân số sống bằng trồng trọt cây lương thực ngô, lúa mạch, lúa miến. Cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chính. Ngành chăn nuôi (, lừa, cừu) tập trung trên các đồng cỏ cao nguyên và ở các vùng duyên hải. Ngành công nghiệp mỏ ít được chú trọng khai thác. Công nghiệp còn trong tình trạng phôi thai: công nghiệp dệt và nông thực phẩm.

Ethiopis là một nước kinh tế nông nghiệp chậm phát triển.

Sản phẩm công nghiệp gồm có : Thực phẩm chế biến, thức uống, kim loại, xi măng, hàng dệt, hóa chất.

Sản phẩm nông nghiệp gồm có : Cà phê, ngũ cốc, lạc, khoai tây, mía, hạt có dầu, cây qat; da động vật sống, , cừu, .

Tổng sản phẩm quốc nội theo sức mua năm 2006 là 74,880,000,000 USD

Thu nhập bình quân đầu người 979 USD/người

Giao thông vận tải

Ethiopia có 681 km đường sắt từ Addis Ababa đi Djibouti, tất cả 1.000 mm (3 ft 3+3⁄8 in) tầm hẹp. Hiện tại đường sắt nằm dưới sự kiểm soát công giữa Djibouti và Ethiopia, nhưng đang dưới sự đàm phán của tư nhân cho phương tiện tiện ích này.

Với một phần đầu tiên cho một chương trình phát triển 10 năm cho đường xá, giữa 1997 và 2002 chính phủ Ethiopian bắt đầu duy trì nỗ lực nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng đường xá. Kết quả là năm 2002 Ethiopia có tổng (Liên tỉnh và khu vực) 33.297 km đường, gồm rải nhựa và rải sỏi.

Dân số

Số dân ở Ethiopia[24]
Năm Triệu
1971 31,7
1980 37,9
1990 51,5
2000 65,5
2004 72,7
2008 80,7

Dân số Ethiopia tăng từ 33,5 triệu năm 1983 lên 75,1 triệu năm 2006.[25], trong khi dân số trong thế kỷ 19 chỉ có khoảng 9 triệu.[26] Theo điều tra dân số và nhà cửa năm 2007, dân số Ethiopia tăng với mức trung bình hàng năm là 2,6% giữa năm 1994 và 2007, giảm từ 2,8% trong giai đoạn 1983–1994. Tốc độ tăng dân số hiện nay của quốc gia này nằm trong nhóm 10 nước dẫn đầu thế giới. Theo dự báo dân số nước này có thể tăng lên hơn 210 triệu vào năm 2060 dự theo tỷ lệ tăng của năm 2011 là khoảng 2,5.[27]

Dân số Ethiopia bao gồm hơn 80 sắc tộc. Theo thống kê năm 2007 các nhóm sắc tộc chiếm đa số là Oromo 32.1%, Amara 30.1%, Tigraway 6.2%, Somali 5.9%, Guragie 4.3%, Sidama 3.5%, Welaita 2.4%, các dân tộc khác 15.4%.[28][29]

Đa số dân Ethiopia nói tiếng Amharic, nhưng cũng có nhiều ngôn ngữ khác được sử dụng rộng rãi như tiếng Tigrinya, tiếng Orominga, tiếng Guaraginga, tiếng Somali, tiếng Ả Rập, tiếng Anh.

Sức khỏe

Chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng còn yếu kém. Các căn bệnh như dịch tả, sốt rét, sốt vàng da, suy dinh dưỡng... khá phổ biến.

Giáo dục

Chương trình giáo dục không bắt buộc. Giáo dục tiểu học bắt đầu từ năm 7 tuổi và trung học từ năm 13 tuổi. Khoảng 50% số trẻ em đến tuổi được đến trường. Ethiopia có một trường Đại học Tổng hợp ở thủ đô Adis Abeba và một số trường đại học khác.

Tôn giáo

Theo cuộc điều tra dân số năm 2007[30], Kitô giáo chiếm 62,8%, trong đó Chính thống giáo Cổ Đông phương (Giáo hội Chính thống Ethiopia) chiếm 43,5%, Tin lành 18,6% và Công giáo Rôma (Giáo hội Công giáo Ethiopia) chiếm 0,7%. Hồi giáo chiếm 33,9%, các tín ngưỡng vật linh chiếm 2,6%, tôn giáo khác và không tôn giáo chiếm 0,7%.

Thể thao

Khảo cổ

Xem khác

Tham khảo

  1. ^ http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/cn_vakv/
  2. ^ Speaking after his signing the disputed treaty between Ethiopia and Italy in 1889, Emperor Menelik II made clear his position: "We cannot permit our integrity as a Christian and civilized nation to be questioned, nor the right to govern our empire in absolute independence. The Emperor of Ethiopia is a descendant of a dynasty that is 3,000 years old — a dynasty that during all that time has never submitted to an outsider. Ethiopia has never been conquered and she never shall be conquered by anyone." Ethiopia Unbound: Studies In Race Emancipation – p. xxv by Joseph Ephraim Casely Hayford
  3. ^ Michael Hopkin (16 tháng 2 năm 2005). “Ethiopia is top choice for cradle of Homo sapiens”. Nature. doi:10.1038/news050214-10.
  4. ^ Li, J. Z.; Absher, DM; Tang, H; Southwick, AM; Casto, AM; Ramachandran, S; Cann, HM; Barsh, GS; Feldman, M (2008). “Worldwide Human Relationships Inferred from Genome-Wide Patterns of Variation”. Science. 319 (5866): 1100–1104. Bibcode:2008Sci...319.1100L. doi:10.1126/science.1153717. PMID 18292342.
  5. ^ “Humans Moved From Africa Across Globe, DNA Study Says”. Bloomberg.com. 21 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
  6. ^ Karen Kaplan, Los Angeles Times (21 tháng 2 năm 2008). “Around the world from Addis Ababa”. Startribune.com. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
  7. ^ Stuart Munro-Hay, Aksum: An African Civilization of Late Antiquity. Edinburgh: University Press, 1991, p. 57 ISBN 0-7486-0106-6.
  8. ^ Aksumite Ethiopia. Workmall.com (2007-03-24). Retrieved on 2012-03-03.
  9. ^ Paul B. Henze, Layers of Time: A History of Ethiopia, 2005 ISBN 1-85065-522-7.
  10. ^ Davison, William (15 tháng 7 năm 2010). “Ethiopia Africa's second biggest hydropower”. Bloomberg.com. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2010.
  11. ^ “History of Conflict and Conservation: 1961–1991”. Worldwildlife.org. 12 tháng 9 năm 1974. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2010.
  12. ^ “Ethiopia surpasses Kenya to become East Africa's Biggest Economy”. Nazret.com. 6 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
  13. ^ Ethiopia GDP purchasing power 2010: 86 billion. Imf.org (2006-09-14). Retrieved on 2012-03-03.
  14. ^ Kenya GDP purchasing power 2010: 66 Billion. Imf.org (2006-09-14). Retrieved on 2012-03-03.
  15. ^ “Ethiopia has fastest growing non-Oil Economy in Africa – IMF”. Jimmatimes.com. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
  16. ^ “Ethiopia will be 5th fastest growing economy in the world in 2010 – economist”. Export.by. 25 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
  17. ^ Ethiopia regional powerhouse[liên kết hỏng]
  18. ^ “CSIS on Ethiopia regional power”. Csis.org. 22 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
  19. ^ Grand Millennium Dam
  20. ^ Ethiopia human rights. State.gov (2011-04-08). Retrieved on 2012-03-03.
  21. ^ “Ethiopia fastest growing economy”. nazret.com.
  22. ^ Meles Zenawi summit. Reuters.com. Retrieved on 2012-03-03.
  23. ^ “CIA World Factbook -Rank Order – Area”. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2008.
  24. ^ CO2 Emissions from Fuel Combustion Population 1971–2008 IEA pdf pp. 83–85
  25. ^ Diercke Landerlexicon, 1983
  26. ^ W. G. Clarence-Smith The Economics of the Indian Ocean slave trade in the nineteenth century (1989). p.100. ISBN 0-7146-3359-3
  27. ^ Forecast provided by International Futures and hosted by Google's Public Data Explorer
  28. ^ Berhanu Abegaz, Ethiopia: A Model Nation of MinoritiesPDF (51.7 KB) . Retrieved 6 April 2006.
  29. ^ Population. Embassy of Ethiopia, Washington, DC (2000–01). Retrieved 6 April 2006.
  30. ^ 2007 Ethiopian census, first draft, Ethiopian Central Statistical Agency (accessed 6 May 2009)

Mục lục

Liên kết ngoài

Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt