Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cải tạo Sao Hỏa”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thêm đường dẫn
Thẻ: Thêm liên kết dưới Liên kết ngoài hoặc Tham khảo Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
 
(Không hiển thị 80 phiên bản của 29 người dùng ở giữa)
Dòng 1: Dòng 1:
[[Hình:MarsTransitionV.jpg|thumb|150px|right|Ý tưởng phác họa của một họa sĩ về quá trình cải sinh Sao Hỏa.]]
{{đang viết|đang dịch}}
'''Cải tạo Sao Hỏa''' là một quá trình giả định mà các nhà khoa học sẽ biến đổi [[khí hậu Sao Hỏa|khí hậu của Sao Hỏa]], đặc điểm bề mặt, và các thuộc tính ban đầu với mục đích tạo nên một môi trường phù hợp cho sự sống con người, nhằm khiến việc khai phá Sao Hỏa trở nên an toàn và ổn định hơn với con người.
[[Image:MarsTransitionV.jpg|thumb|150px|right|Ý tưởng của họa sỹ về quá trình cải tạo Sao Hỏa.]]


Ý tưởng dựa trên giả thuyết rằng môi trường của một hành tinh có thể được biến đổi bằng các tác động nhân tạo. Tuy nhiên, tính khả thi của việc tạo ra một [[sinh quyển|bầu khí quyển]] trên Sao Hỏa vẫn chưa rõ ràng. Đã có một vài phương pháp được đề xuất trong cuộc họp, trong đó mặc dù có những phương pháp tiêu tốn rất nhiều tài nguyên và tiền bạc, có những phương pháp mà có thể thực hiện được bằng công nghệ hiện tại và trong tương lai.<ref name="Requirements">{{Chú thích tạp chí|last=Zubrin|first=Robert|last2=Mckay|first2=Christopher|date=1993-06-28|title=Technological requirements for terraforming Mars|url=https://arc.aiaa.org/doi/10.2514/6.1993-2005|journal=29th Joint Propulsion Conference and Exhibit|language=en|location=Monterey,CA,U.S.A.|publisher=American Institute of Aeronautics and Astronautics|doi=10.2514/6.1993-2005}}</ref>
'''Cải tạo Sao Hỏa''' là một quá trình giả thuyết mà các đặc trưng như khí hậu Sao Hỏa, bề mặt, và các thuộc tính ban đầu sẽ được biến đổi với mục đích tạo nên một môi trường phù hợp


== Động cơ và vấn đề đạo lý ==
hơn với sự sống của loài người, như vậy việc khai phá Sao Hỏa sẽ trở nên an toàn và ổn định hơn.


Sự gia tăng dân số và nhu cầu sử dụng tài nguyên trong tương lai có thể buộc con người phải khai phá các hành tinh khác ngoài Trái Đất, như Sao Hỏa, [[Mặt Trăng]], và các hành tinh xung quanh. Việc định cư vũ trụ sẽ giúp việc khai thác năng lượng và các nguồn tài nguyên của [[Hệ Mặt Trời]] dễ dàng hơn.<ref name="MTS-1994">{{Chú thích sách|url=https://www.worldcat.org/oclc/30319063|title=The millennial project : colonizing the galaxy in eight easy steps|last=Savage|first=Marshall T.|date=1994|publisher=Little, Brown|isbn=0-316-77165-1|location=Boston|oclc=30319063}}</ref>
Ý tưởng dựa trên giả thuyết rằng môi trường của một hành tinh có thể được biến đổi bằng các tác động nhân tạo. Tuy nhiên, tính khả thi của việc tạo ra một sinh quyển trên Sao Hỏa vẫn


Trong nhiều khía cạnh, Sao Hỏa là hành tinh giống Trái Đất nhất trong các hành tinh còn lại của Hệ Mặt Trời. Sao Hỏa được tin rằng<ref name="Space-20130408">{{chú thích web |last=Wall |first=Mike |title=Most of Mars' Atmosphere Is Lost in Space |url=http://www.space.com/20560-mars-atmosphere-lost-curiosity-rover.html |date=ngày 8 tháng 4 năm 2013 |work=[[Space.com]]|access-date =ngày 9 tháng 4 năm 2013 }}</ref> đã từng có một môi trường khá giống Trái Đất ở thời kỳ đầu lịch sử của nó, với một khí quyển dày hơn và lượng nước dồi dào nhưng đã mất dần trong hàng trăm triệu năm. Với nền móng tương tự và khoảng cách gần với Trái Đất, Sao Hỏa là một trong những mục tiêu cải tạo hiệu quả và dễ dàng nhất trong Hệ Mặt Trời.
chưa rõ ràng. Đã có một vài phương pháp được đề xuất, một vài trong số đó tiêu tốn rất lớn tài nguyên và kinh tế, số khác đòi hỏi phải có các đột phá của công nghệ hiện tại.<ref


Việc xem xét những vấn đề đạo lý của quá trình cải sinh bao gồm khả năng hủy diệt hoặc thay thế sự sống trên Sao Hỏa, thậm chí là vi sinh vật, nếu nó tồn tại.
name="Requirements">{{cite web|url=http://www.users.globalnet.co.uk/~mfogg/zubrin.htm|title=Technological Requirements for Terraforming Mars|author=Robert M. Zubrin (Pioneer

Astronautics), Christopher P. McKay. [[NASA Ames Research Center]]|year=1993?}}</ref>

== Động cơ và nguyên lý ==

Sự phát triển của dân số trong tương lai và nhu cầu sử dụng tài nguyên là cấp thiết buộc con người cần phải khai phá các hành tinh khác ngoài Trái Đất, như Sao Hỏa, Mặt Trăng, và các

hành tinh xung quanh. Sự khai phá không gian sẽ giúp đơn giản hóa vấn đề khai thác năng lượng và các nguồn tài nguyên trong Hệ Mặt Trời.<ref name="MTS-1994">{{cite web

|last=Savage |first=Marshall T. |title=The Millennial Project: Colonizing the Galaxy in Eight Easy Steps

|url=http://www.amazon.com/The-Millennial-Project-Colonizing-Galaxy/dp/0316771635 |publisher=[[Little, Brown and Company]] (Amazon.com) |year=1994 |asin=0316771635

|accessdate=September 28, 2013 }}</ref>

Trong nhiều khía cạnh, Sao Hỏa là giống Trái Đất nhất so với các hành tinh còn lại trong Hệ Mặt Trời. Sao Hỏa được tin rằng<ref name="Space-20130408">{{cite web |last=Wall

|first=Mike |title=Most of Mars' Atmosphere Is Lost in Space |url=http://www.space.com/20560-mars-atmosphere-lost-curiosity-rover.html |date=April 8, 2013 |work=[[Space.com]]

|accessdate=April 9, 2013 }}</ref> nó đã từng có một môi trường khá giống Trái Đất ở thời kỳ đầu trong lịch sử của nó, với khí quyển dày đặc hơn và lượng nước dồi dào nhưng đã mất

dần trong quá trình hàng trăm triệu năm. Với nền móng tương tự như Trái Đất, Sao Hỏa sẽ trở thành mục tiêu cải tạo hiệu quả và dễ dàng nhất trong Hệ Mặt Trời.

Việc xem xét nguyên lý của quá trình cải tạo bao gồm sự hủy diệt hoặc thay thế tiềm tàng của sự sống trên Sao Hỏa, thậm chí là vi khuẩn, nếu nó tồn tại.


== Thách thức và giới hạn ==
== Thách thức và giới hạn ==
{{See also|Thuộc địa hóa Sao Hỏa}}
{{xem thêm|Định trên Sao Hỏa}}
Môi trường Sao Hỏa hiện hữu một số các thách thức cần khắc phục và việc mở rộng quy mô cải tạo có thể bị giới hạn bởi các nhân tố môi trường chính.
Môi trường Sao Hỏa hiện hữu một số các thách thức cần khắc phục và việc mở rộng quy mô cải tạo có thể bị giới hạn bởi các nhân tố môi trường chính.


=== Trọng trường thấp ===
=== Trọng trường yếu ===
{{see also|Ảnh hưởng của trọng trường thấp đối với con người}}
{{xem thêm|Ảnh hưởng của trọng trường thấp đối với con người}}

Trọng lực trên bề mặt Sao Hỏa chỉ bằng 38% so với Trái Đất. Các nhà khoa học không rõ liệu trọng lực của nó có đủ để ngăn chặn các vấn đề sức khỏe xuất hiện ở môi trường không

trọng lực.<ref>[http://science.nasa.gov/science-news/science-at-nasa/2001/ast02aug_1/ Gravity Hurts (so Good)] - NASA 2001</ref>

Hơn nữa, trọng lực thấp của Sao Hỏa sẽ khiến nó khó để giữ lại bầu khí quyển không giống như Trái Đất hay Sao Kim.<ref name="Ludin & Barabash">{{cite

journal|last=Lundin|first=Rickard|coauthors=Stanislav Barabash|title=Evolution of the Martian atmosphere and hydrosphere: Solar wind erosion studied by ASPERA-3 on Mars

Express|journal=Planetary and Space

Science|year=2004|volume=52|issue=11|pages=1059–71|doi=10.1016/j.pss.2004.07.020|url=http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0032063304000832|accessdate=3 May


Trọng lực trên bề mặt Sao Hỏa chỉ bằng 38% so với Trái Đất. Các nhà khoa học không rõ liệu trọng lực của nó có đủ để ngăn chặn các vấn đề sức khỏe xuất hiện ở môi trường không trọng lực hay không.<ref>[http://science.nasa.gov/science-news/science-at-nasa/2001/ast02aug_1/ Gravity Hurts (so Good)] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20121124050335/http://science.nasa.gov/science-news/science-at-nasa/2001/ast02aug_1/ |date=2012-11-24 }} - NASA 2001</ref>
2013}}</ref> Trái Đất và Sao Kim đều có bầu khí quyển dày đặc bao quanh, mặc dù chúng phải hứng chịu nhiều những cơn gió mặt trời mà sẽ thổi bay những vật chất khí trên hành tinh.


Hơn nữa, trọng lực thấp của Sao Hỏa sẽ khiến nó khó có thể giữ lại bầu khí quyển như Trái Đất hay Sao Kim.<ref name="Ludin & Barabash">{{chú thích tạp chí|authors=Rickard Lundin & Stanislav Barabash|title=Evolution of the Martian atmosphere and hydrosphere: Solar wind erosion studied by ASPERA-3 on Mars Express|journal=Planetary and Space Science|year=2004|volume=52|issue=11|pages=1059–71|doi=10.1016/j.pss.2004.07.020|url=http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0032063304000832|access-date =3 tháng 5 năm 2013}}</ref> Trái Đất và Sao Kim đều có bầu khí quyển dày đặc bao quanh, mặc dù chúng phải hứng chịu nhiều hơn những cơn [[Gió Mặt Trời|gió mặt trời]] mà sẽ thổi bay những vật [[chất khí]] trên hành tinh. Việc duy trì các nguồn khí trên Sao Hỏa có thể là cần thiết để đảm bảo rằng một bầu khí quyển đậm đặc cho con người được duy trì trong thời gian dài.
Việc duy trì các nguồn khí trên Sao Hỏa có thể là cần thiết để đảm bảo rằng một bầu khí quyển đậm đặc cho con người được duy trì trong thời gian dài.


=== Hứng chịu những ảnh hưởng của vũ trụ ===
=== Hứng chịu những ảnh hưởng của vũ trụ ===
{{See also|Đe dọa đối với sức khỏe từ các tia vũ trụ}}
{{xem thêm|Đe dọa đối với sức khỏe từ các tia vũ trụ}}
Mars thiếu một từ quyển để làm giảm bức xạ mặt trời và giữ lại bầu khí quyển. Các nhà khoa học tin rằng các trường từ được dò thấy trên Sao Hỏa là dấu tích còn lại của từ quyển mà đã
Sao Hoả thiếu một [[từ quyển]] để làm giảm bức xạ mặt trời và giữ lại bầu khí quyển. Các nhà khoa học tin rằng các trường từ được dò thấy trên Sao Hỏa là dấu tích còn lại của từ quyển mà đã biến mất vào thời kỳ đầu của Sao Hỏa.


Việc thiếu đi từ quyển là một lý do gây nên bầu khí quyển mỏng manh của Sao Hỏa. Các nguyên tử của gió mặt trời bên trong khí quyển Sao Hỏa đã được phát hiện bởi các máy dò bay trên quỹ đạo Sao Hỏa, Sao Kim. Tuy nhiên, rõ ràng chứng minh rằng sự thiếu đi một từ quyển sẽ không làm mất đi khí quyển dày đặc của nó.
biến mất vào thời kỳ đầu của Sao Hỏa.


Trái Đất chứa rất nhiều nước bởi vì [[tầng điện ly]] chịu ảnh hưởng của từ quyển. Các ion Hydro hiện diện trong tầng điện ly di chuyển rất nhanh do có khối lượng nhỏ, nhưng vẫn không thể thoát ra ngoài vũ trụ được bởi quỹ đạo của chúng sẽ bị uốn cong trở lại bầu khí quyển dưới tác dụng của từ trường. Sao Kim có bầu khí quyển dày đặc, nhưng dấu vết của hơi nước chỉ ở mức 20 ppm do nó không có từ trường. Nước trong khí quyển của Sao Hỏa cũng bị thoát vào vũ trụ. Trái Đất còn được tăng cường sự bảo vệ bởi tầng ozone. [[Tử ngoại|Tia cực tím]] đã bị ngăn chặn trước khi nó có thể xâm nhập khí quyển và phân giải nước thành hydro và oxy. Bởi vì chỉ có số ít hơi nước tồn tại ở [[tầng đối lưu]] và tầng ozone nằm phía trên tầng bình lưu, nên chỉ một lượng nước nhỏ bị phân giải thành hydro và oxy.
Việc thiếu đi từ quyển là một lý do gây nên bầu khí quyển mỏng manh của Sao Hỏa. [[Solar wind|Solar-wind]]-induced ejection of Martian atmospheric atoms has been detected by


Từ trường của Trái Đất là 31µT. Sao Hỏa cũng sẽ cần một từ trường mạnh tương đương như vậy để bù đắp ảnh hưởng của những cơn gió mặt trời. Công nghệ tạo ra một từ trường bao phủ hành tinh hiện vẫn chưa xuất hiện. Tầm quan trọng của từ quyển đã được đặt dấu hỏi. Trong quá khứ, Trái Đất đã từng có những giai đoạn mà từ quyển đổi hướng,<ref>{{chú thích web|url=http://science.nasa.gov/science-news/science-at-nasa/2003/29dec_magneticfield/|title=Earth's Inconstant Magnetic Field|work=Science@Nasa|last=Phillips|first=Tony|date=ngày 29 tháng 12 năm 2003|access-date=ngày 17 tháng 3 năm 2012|archive-date=2012-03-12|archive-url=https://web.archive.org/web/20120312090720/http://science.nasa.gov/science-news/science-at-nasa/2003/29dec_magneticfield/|url-status=dead}}</ref> nhưng sự sống vẫn tiếp diễn. Bầu khí quyển dày đặc giống như Trái Đất có thể bảo vệ Sao Hỏa trước bức xạ mặt trời trong điều kiện thiếu từ quyển.
Mars-orbiting probes. Venus, however, clearly demonstrates that the lack of a magnetosphere does not preclude a dense atmosphere.

Earth abounds with water because its ionosphere is permeated with a magnetosphere. Các ion Hydro hiện diện trong tầng điện ly di chuyển rất nhanh do có khối lượng nhỏ, nhưng vẫn ko

thể thoát ra ngoài vũ trụ được bởi quỹ đạo của chúng sẽ bị uốn cong trở lại bầu khí quyển dưới tác dụng của từ trường. Sao Kim có bầu khí quyển dày đặc, nhưng dấu vết của hơi nước chỉ

ở mức 20 ppm do nó không có từ trường. Nước trong khí quyển của Sao Hỏa cũng bị thoát vào vũ trụ. Trái Đất còn được tăng cường sự bảo vệ bởi tầng ozone. Tia cực tím đã bị ngăn

chặn trước khi nó có thể xâm nhập khí quyển và phân giải nước thành hydro và oxy. Bởi vì chỉ có số ít hơi nước tồn tại ở tầng đối lưu và tầng ozone nằm phía trên tầng bình lưu, nên chỉ một

lượng nước nhỏ bị phân giải thành hydro và oxy.

Trường từ tính của Trái Đất là 31[[Tesla (unit)|µT]]. Mars would require a similar magnetic-field intensity to similarly offset the effects of the solar wind at its distance further from the Sun.

Công nghệ tạo ra một từ trường bao phủ hành tinh hiện vẫn chưa xuất hiện.

Tầm quan trọng của từ quyển đã được đặt dấu hỏi. Trong quá khứ, Trái Đất đã từng có những giai đoạn mà từ quyển đổi hướng,<ref>{{cite

web|url=http://science.nasa.gov/science-news/science-at-nasa/2003/29dec_magneticfield/|title=Earth's Inconstant Magnetic

Field|work=Science@Nasa|last=Phillips|first=Tony|date=December 29, 2003|accessdate=March 17, 2012}}</ref> nhưng sự sống vẫn tiếp diễn. Một bầu khí quyển dày đặc giống như của

Trái Đất có thể bảo vệ Sao Hỏa trước bức xạ mặt trời trong điều kiện thiếu từ quyển.<ref>{{cite web|url=http://www.phy6.org/earthmag/magnQ&A1.htm#q6}}</ref>


== Thuận lợi ==
== Thuận lợi ==
{{See also|Khí quyển Sao Hỏa}}
{{xem thêm|Khí quyển Sao Hỏa}}
[[File:TerraformedMarsGlobeRealistic.jpg|thumb|Hypothetical terraformed Mars]]
[[Tập tin:TerraformedMarsGlobeRealistic.jpg|thumb|Sao Hỏa được cải sinh trên giả thuyết]]
Theo các nhà lý luận hiện đại, Sao Hỏa nằm bên ngoài rìa của "vùng cư trú được", một vùng trong Hệ Mặt Trời mà thích hợp cho sự sống. Sao Hỏa nằm ở phần biên của vùng được biết đến
Theo các nhà lý luận hiện đại, Sao Hỏa nằm bên ngoài rìa của "[[Vùng ở được quanh sao|vùng cư trú được]]", một vùng trong Hệ Mặt Trời mà thích hợp cho sự sống. Sao Hỏa nằm ở phần biên của vùng được biết đến với tên gọi là "vùng cư trú mở rộng" nơi mà các khí nhà kính dày đặc có thể tạo ra một áp suất khí quyển vừa đủ để giúp nước tồn tại ở dạng lỏng trên bề mặt hành tinh. Do đó, Sao Hỏa có tiềm năng hỗ trợ [[thủy quyển]] và sinh quyển.{{chú thích needed|date=February 2013}}
Sự thiếu hụt cả từ trường và các hoạt động địa chất trên Sao Hỏa có thể là do kích thước nhỏ bé của nó, khiến cho phần lõi Sao Hỏa nguội nhanh hơn nhiều so với Trái Đất, mặc dù chi tiết của quá trình đó vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng. Các nhà khoa học cho rằng Sao Hỏa đã từng có một môi trường tương tự như Trái Đất ở giai đoạn đầu trong quá trình phát triển của nó.<ref>{{chú thích web | url = http://science.nasa.gov/headlines/y2008/21nov_plasmoids.htm?list59243 | title = Solar Wind Rips Up Martian Atmosphere | publisher = NASA | author = Dr. Tony Phillips | date = ngày 21 tháng 11 năm 2008 | ngày truy cập = 2014-06-20 | archive-date = ngày 17 tháng 2 năm 2009 | archive-url = https://web.archive.org/web/20090217212646/http://science.nasa.gov/headlines/y2008/21nov_plasmoids.htm?list59243 | url-status=dead }}</ref> Mặc dù nước đã từng hiện diện trên bề mặt Sao Hỏa, giờ đây nước chỉ tồn tại trên 2 cực, là những tầng đóng băng bên dưới bề mặt của hành tinh. Ngày 26/9/2013, các nhà khoa học NASA thông báo robot tự hành [[Curiosity (xe tự hành)|Curiosity]] đã phát hiện lượng nước lớn chiếm 1.5-3% khối lượng của mẫu đá ở vùng đồng bằng Aeolis Palus khu vực miệng núi lửa Gale.<ref name="ST-20130926">{{chú thích web|url=http://www.isciencetimes.com/articles/6131/20130926/mars-water-soil-nasa-curiosity-rover-martian.htm|title=Mars Water Found: Curiosity Rover Uncovers 'Abundant, Easily Accessible' Water In Martian Soil|last=Lieberman|first=Josh|date=ngày 26 tháng 9 năm 2013|work=iSciencetimes|archive-url=https://web.archive.org/web/20170623005252/http://www.isciencetimes.com/articles/6131/20130926/mars-water-soil-nasa-curiosity-rover-martian.htm|archive-date=ngày 23 tháng 6 năm 2017|url-status=dead|access-date=2013-09-26}}</ref><ref name="Science-20130926a">{{chú thích tạp chí|author=Leshin|first=L. A.|date=ngày 27 tháng 9 năm 2013|title=Volatile, Isotope, and Organic Analysis of Martian Fines with the Mars Curiosity Rover|url=http://www.sciencemag.org/content/341/6153/1238937|journal=[[Science (journal)]]|volume=341|doi=10.1126/science.1238937|access-date=ngày 26 tháng 9 năm 2013|number=6153}}</ref><ref name="Science-20130926">{{chú thích tạp chí |last=Grotzinger |first=John |title=Introduction To Special Issue: Analysis of Surface Materials by the Curiosity Mars Rover |url=http://www.sciencemag.org/content/341/6153/1475.full |date=ngày 26 tháng 9 năm 2013 |journal=[[Science (journal)]] |volume=341 |number=6153 |page=1475 |doi=10.1126/science.1244258 |access-date =ngày 27 tháng 9 năm 2013 }}</ref><ref name="NASA-20130926a">{{chú thích web |last1=Neal-Jones |first1=Nancy |last2=Zubritsky |first2=Elizabeth |last3=Webster |first3=Guy |last4=Martialay |first4=Mary |title=Curiosity's SAM Instrument Finds Water and More in Surface Sample |url=http://www.nasa.gov/content/goddard/curiositys-sam-instrument-finds-water-and-more-in-surface-sample/ |date=ngày 26 tháng 9 năm 2013 |work=[[NASA]] |access-date =ngày 27 tháng 9 năm 2013 }}</ref><ref name="NASA-20130926b">{{chú thích web |last1=Webster |first1=Guy |last2=Brown |first2=Dwayne |title=Science Gains From Diverse Landing Area of Curiosity |url=http://www.nasa.gov/mission_pages/msl/news/msl20130926.html |date=ngày 26 tháng 9 năm 2013 |work=[[NASA]] |access-date=ngày 27 tháng 9 năm 2013 |archive-date=2019-05-02 |archive-url=https://web.archive.org/web/20190502194152/https://www.nasa.gov/mission_pages/msl/news/msl20130926.html |url-status=dead }}</ref>


Đất đá và khí quyển Sao Hỏa có chứa nhiều nguyên tố chính cần thiết cho sự sống. Một lượng lớn băng nước tồn tại bên dưới bề mặt Sao Hỏa, cũng như trên bề mặt 2 cực, đang tồn tại ở dạng hỗn hợp với [[đá khô]], CO<sub>2</sub> đóng băng. Lượng đáng kể nước được lưu trữ ở cực nam của Sao Hỏa, nếu tan chảy, sẽ tương đương với một đại dương sâu 11m bao phủ toàn bộ hành tinh.<ref>{{chú thích tạp chí
với tên gọi là "vùng cư trú mở rộng" nơi mà các khí nhà kính dày đặc có thể tạo ra một áp suất khí quyển vừa đủ để giúp nước tồn tại ở dạng lỏng trên bề mặt hành tinh. Do đó, Sao Hỏa có

tiềm năng hỗ trợ thủy quyển và sinh quyển.{{citation needed|date=February 2013}}

Sự thiếu hụt cả từ trường và các hoạt động địa chất trên Sao Hỏa có thể là do kích thước nhỏ bé của nó, khiến cho phần lõi Sao Hỏa nguội nhanh hơn nhiều so với Trái Đất, mặc dù chi tiết

của quá trình đó vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng.

Các nhà khoa học cho rằng Sao Hỏa đã từng có một môi trường tương tự như Trái Đất ở giai đoạn đầu trong quá trình phát triển của nó.<ref>
{{cite web| url = http://science.nasa.gov/headlines/y2008/21nov_plasmoids.htm?list59243 | title = Solar Wind Rips Up Martian Atmosphere | publisher = NASA | author = Dr. Tony Phillips

| date = 21 November 2008 }}</ref> Although water appears to have once been present on the Martian surface, water appears to exist at the poles just below the planetary surface as

[[permafrost]]. On September 26, 2013, NASA scientists reported the [[Mars]] [[Curiosity (rover)|Curiosity rover]] detected "abundant, easily accessible" [[Water on Mars|water]] (1.5 to

3 weight percent) in [[Martian soil|soil samples]] at the [[Rocknest (Mars)|Rocknest region]] of [[Aeolis Palus]] ở miệng núi lửa Gale.<ref name="ST-20130926">{{cite web

|last=Lieberman |first=Josh |title=Mars Water Found: Curiosity Rover Uncovers 'Abundant, Easily Accessible' Water In Martian Soil

|url=http://www.isciencetimes.com/articles/6131/20130926/mars-water-soil-nasa-curiosity-rover-martian.htm |date=September 26, 2013 |work=iSciencetimes |accessdate=September 26,

2013 }}</ref><ref name="Science-20130926a">{{cite journal |author=Leshin, L. A. et al |title=Volatile, Isotope, and Organic Analysis of Martian Fines with the Mars Curiosity Rover

|url=http://www.sciencemag.org/content/341/6153/1238937 |date=September 27, 2013 |journal=[[Science (journal)]] |volume=341 |number=6153 |doi=10.1126/science.1238937

|accessdate=September 26, 2013 }}</ref><ref name="Science-20130926">{{cite journal |last=Grotzinger |first=John |title=Introduction To Special Issue: Analysis of Surface Materials by

the Curiosity Mars Rover |url=http://www.sciencemag.org/content/341/6153/1475.full |date=September 26, 2013 |journal=[[Science (journal)]] |volume=341 |number=6153 |page=1475

|doi=10.1126/science.1244258 |accessdate=September 27, 2013 }}</ref><ref name="NASA-20130926a">{{cite web |last1=Neal-Jones |first1=Nancy |last2=Zubritsky |first2=Elizabeth

|last3=Webster |first3=Guy |last4=Martialay |first4=Mary |title=Curiosity's SAM Instrument Finds Water and More in Surface Sample

|url=http://www.nasa.gov/content/goddard/curiositys-sam-instrument-finds-water-and-more-in-surface-sample/ |date=September 26, 2013 |work=[[NASA]] |accessdate=September 27,

2013 }}</ref><ref name="NASA-20130926b">{{cite web |last1=Webster |first1=Guy |last2=Brown |first2=Dwayne |title=Science Gains From Diverse Landing Area of Curiosity

|url=http://www.nasa.gov/mission_pages/msl/news/msl20130926.html |date=September 26, 2013 |work=[[NASA]] |accessdate=September 27, 2013 }}</ref>

Đất đá và khí quyên Sao Hỏa có chứa nhiều nguyên tố chính cần thiết cho sự sống

Một lượng lớn băng nước tồn tại bên dưới bề mặt Sao Hỏa, cũng như trên bề mặt 2 cực, where it is mixed with [[dry ice]], frozen {{CO2}}. Lượng đáng kể nước được lưu trữ ở cực nam

của Sao Hỏa, nếu tan chảy, sẽ tương đương với một đại dương sâu 11m bao phủ toàn bộ hành tinh.<ref>{{Cite journal
| author=R.C.
| author=R.C.
| title=Radar Probes Frozen Water at Martian Pole
| title=Radar Probes Frozen Water at Martian Pole
| journal=Science News
| journal=Science News
| volume=171 | issue=13 | page=206
| volume=171
| issue=13
| page=206
|date=March 2007
| date=March 2007
| jstor=20055502
| jstor=20055502
| doi=10.1002/scin.2007.5591711315
| doi=10.1002/scin.2007.5591711315
| url=http://www.sciencenews.org/view/generic/id/8369/title/Radar_probes_frozen_water_at_Martian_pole}}{{subscription required}}</ref> Băng khô CO2 ở 2 cực bay hơi vào khí
| url=http://www.sciencenews.org/view/generic/id/8369/title/Radar_probes_frozen_water_at_Martian_pole
| access-date=2014-06-20

| archive-date=2012-11-01
quyển vào mùa hè trên Sao Hỏa, và những lượng nhỏ nước còn sót lại, sẽ nhanh chóng bị những trận gió với vận tốc lên tới 400km/h thổi bay.{{Citation needed|date=December 2012}} Sự
| archive-url=https://web.archive.org/web/20121101205153/http://www.sciencenews.org/view/generic/id/8369/title/Radar_probes_frozen_water_at_Martian_pole

}}{{subscription required}}</ref> Băng khô CO<sub>2</sub> ở 2 cực bay hơi vào khí quyển vào mùa hè trên Sao Hỏa, và những lượng nhỏ nước còn sót lại, sẽ nhanh chóng bị những trận gió với vận tốc lên tới 400&nbsp;km/h thổi bay.{{chú thích needed|date=December 2012}} Sự thay đổi các mùa đưa một lượng lớn bụi và hơi nước vào trong khí quyển, có tiềm năng tạo thành những đám mây kết tủa như Trái Đất.{{chú thích needed|date=December 2012}} Hầu hết oxy trên khí quyển Sao Hỏa tồn tại trong CO<sub>2</sub> - thành phần chính của khí quyển hành tinh này. Phân tử O2 chỉ tồn tại với một lượng rất nhỏ. Lượng lớn nguyên tố oxy cũng được tìm thấy trong sắt oxit trên bề mặt Sao Hỏa, và trong đất đá, dưới dạng các Nitrat.<ref name="Lovelock">{{chú thích sách |last1=Lovelock |first1=James |last2=Allaby |first2=James |title=The Greening of Mars |year=1984|publisher=St. Martin's Press|isbn=9780312350246}}</ref> Một phân tích mẫu đá của tàu đổ bộ Phoenix đã chỉ ra sự hiện diện của [[perchlorat]], hợp chất hóa học được sử dụng để phân giải oxy trong các thiết bị sản xuất oxy bằng phương pháp hóa học.<ref>{{chú thích web|url=http://www.sciencemag.org/content/325/5936/64.abstract|title=Detection of Perchlorate and the Soluble Chemistry of Martian Soil at the Phoenix Lander Site|last=Hecht|publisher=Science Magazine|url-status=live|access-date=ngày 13 tháng 1 năm 2014}}</ref> [[Điện phân]] cũng có thể được sử dụng để phân giải nước trên Sao Hỏa thành oxy và hydro.{{chú thích needed|date=December 2012}}
thay đổi các mùa đưa một lượng lớn bụi và hơi nước vào trong khí quyển, có tiềm năng tạo thành những đám mây kết tủa như Trái Đất.{{Citation needed|date=December 2012}}

Hầu hết oxy trên khí quyển Sao Hỏa tồn tại trong CO2 - thành phần chính của khí quyển hành tinh này. Phân tử O2 chỉ tồn tại với một lượng rất nhỏ. Lượng lớn nguyên tố oxy cũng được tìm

thấy trong sắt oxit trên bề mặt Sao Hỏa, và trong đất đá, dưới dạng các Nitrat.<ref name="Lovelock">{{Cite book |last1=Lovelock |first1=James |last2=Allaby |first2=James |title=The

Greening of Mars |year=1984|publisher=St. Martin's Press|isbn=9780312350246}}</ref> An analysis of soil samples taken by the [[Phoenix lander]] indicated the presence of

[[perchlorate]], which has been used to liberate oxygen in [[chemical oxygen generators]].<ref>{{cite web|last=Hecht et al.|title=Detection of Perchlorate and the Soluble Chemistry of

Martian Soil at the Phoenix Lander Site|url=http://www.sciencemag.org/content/325/5936/64.abstract|publisher=Science Magazine|accessdate=13 January 2014}}</ref> [[Electrolysis]]

could be employed to separate water on Mars into oxygen and [[hydrogen]] if sufficient liquid water and electricity were available.{{Citation needed|date=December 2012}}


== Các chiến lược và phương pháp được đề xuất ==
== Các chiến lược và phương pháp được đề xuất ==
Dòng 169: Dòng 59:
|+ '''So sánh khi quyển khô'''
|+ '''So sánh khi quyển khô'''
!
!
! [[Khí quyển Sao Hỏa|Mars]]
! [[Khí quyển Sao Hỏa|Sao Hoả]]
! [[Khí quyển Trái Đất|Earth]]
! [[Khí quyển Trái Đất|Trái Đất]]
|-
|-
! Pressure || {{convert|0.6|kPa|abbr=on}} || {{convert|101.3|kPa|abbr=on}}
! Áp suất || 0.6kPa || 101.3kPa
|-
|-
! [[Carbon dioxide]] (CO2) || 96.0% || 0.04%
! [[Carbon dioxide]] (CO<sub>2</sub>) || 96.0% || 0.04%
|-
|-
! [[Argon]] (Ar) || 2.1% || 0.93%
! [[Argon]] (Ar) || 2.1% || 0.93%
Dòng 182: Dòng 72:
! [[Oxygen]] (O<sub>2</sub>) || 0.145% || 20.94%
! [[Oxygen]] (O<sub>2</sub>) || 0.145% || 20.94%
|}
|}
[[Image:TerraformedMarsTharsis.jpg|thumb|250px|Ý tưởng của họa sỹ về một Sao Hỏa được cải tạo tập trung vào khu vực Tharsis]]
[[Hình:TerraformedMarsTharsis.jpg|thumb|250px|Ý tưởng của họa về một Sao Hỏa được cải sinh tập trung vào khu vực Tharsis]]
[[Hình:TerraformedMars.jpg|thumb|250px|Ý tưởng của họa sĩ về một Sao Hỏa được cải sinh. Bức tranh này lấy trung tâm xấp xỉ tại đường kinh tuyến gốc, 30° Vĩ Bắc và một đại dương mà đã được giả thiết có mặt nước biển thấp hơn độ cao mặt đất trung bình 2 kilômét. Đại dương này nhấn chìm những gì mà giờ ta gọi là Vastitas Borealis, Acidalia Planitia, Chryse Planitia, và Xanthe Terra; phần đất liền nhìn thấy được là Tempe Tera ở bên trái, Aonia Terra ở dưới cùng, Tera Mẻidiani ở góc dưới phải, và Arabia Terra ở phía trên phải. Những dòng sông mà đổ ra biển ở phía góc dưới bên phải ở chỗ mà ngày nay gọi là Valles Marineris và Ares Vallis và hồ nước lớn ở góc dưới bên phải nằm ở chỗ mà ngày nay là Aram Chaos.]]
[[Image:TerraformedMars.jpg|thumb|right|250px|Ý tưởng của họa sỹ về một Sao Hỏa được cải tạo. This portrayal is approximately centered on the prime meridian and 30° North latitude, and a


Quá trình cải sinh Sao Hỏa sẽ cần 3 thay đổi chủ chốt cùng lúc: xây dựng một bầu khí quyển, giữ ấm, và ngăn chặn khí quyển thoát ra ngoài vũ trụ. Khí quyển của Sao Hỏa tương đối mỏng và áp suất khí quyển tại bề mặt Sao Hỏa rất thấp. Bởi vì khí quyển sao hỏa chủ yếu bao gồm CO<sub>2</sub>, một loại khí nhà kính, nên một khi Sao Hỏa bắt đầu nóng lên, CO<sub>2</sub> sẽ giúp giữ lại nhiệt lượng gần bề mặt. Hơn nữa, khi nóng lên, thêm nhiều CO<sub>2</sub> sẽ được giải phóng vào khí quyển từ trữ lượng băng khô CO<sub>2</sub> ở 2 cực, giúp đẩy nhanh hiệu ứng nhà kính. Điều này có nghĩa rằng 2 quá trình hình thành bầu khí quyển và làm nóng khí quyển sẽ tương trợ nhau, bổ trợ vào quá trình cải sinh Sao Hỏa.
hypothesized ocean with a sea level at approximately two kilometers below average surface elevation. The ocean submerges what are now [[Vastitas Borealis]], [[Acidalia Planitia]],


Môi trường khắc nghiệt được tạo ra bởi chuyển động các luồng khí sẽ hình thành và duy trì các cơn bão bụi lớn, cũng làm nóng bầu khí quyển (bằng việc hấp thụ bức xạ mặt rời).
[[Chryse Planitia]], và [[Xanthe Terra]]; the visible landmasses are [[Tempe Terra]] ở bên trái, [[Aonia Terra]] ở phía dưới, [[Terra Meridiani]] ở phía thấp hơn bên phải, và [[Arabia Terra]] ở chếch phía trên bên phải. Rivers that feed the ocean at the lower right occupy what are now [[Valles Marineris]] và [[Ares Vallis]] and the large lake at the lower right occupies what is now [[Aram


Chaos]].]]

Quá trình cải tạo Sao Hỏa sẽ cần 3 thay đổi chủ chốt xen kẽ nhau: xây dựng một bầu khí quyển, giữ ấm, và ngăn chặn khí quyển thoát ra ngoài vũ trụ. Khí quyển của Sao Hỏa tương đối

mong và áp suất bề mặt Sao Hỏa rất thấp. Bởi vì khí quyển sao hỏa chủ yếu bao gồm CO2, được biết đến là loại khí nhà kính, một khi Sao Hỏa bắt đầu nóng lên, CO2 sẽ giúp giữ lại nhiệt

lượng gần bề mặt. Hơn nữa, khi nóng lên, thêm nhiều CO2 sẽ được giải phóng vào khí quyển từ trữ lượng băng khô CO2 ở 2 cực, giúp đẩy nhanh hiệu ứng nhà kính. Điều này có nghĩa rằng

2 quá trình hình thành bầu khí quyển và làm nóng khí quyển sẽ tương trợ nhau, bổ trợ vào quá trình cải tạo Sao Hỏa.

Môi trường khắc nghiệt được tạo ra bởi chuyển động các luồng khí sẽ hình thành và duy trì các cơn bão bụi lớn, cũng làm nóng bầu khí quyển (bằng việc hấp thụ bức xạ mặt rời).
=== Làm bay hơi Carbon dioxide ===
=== Làm bay hơi Carbon dioxide ===
Hiện tại có đủ CO<sub>2</sub> ở 2 địa cực và bên trong lớp đất đá trên Sao Hỏa để nếu chúng bốc hơi do việc khí hậu ấm lên vài độ, sẽ làm tăng áp suất khí quyển lên tới {{convert|30|kPa|atm}},<ref name="channel.nationalgeographic.com">{{chú thích web|author=USA |url=http://channel.nationalgeographic.com/channel/episodes/mars-making-the-new-earth/ <!-- DEAD LINK:http://channel.nationalgeographic.com/episode/mars-making-the-new-earth-4588/living-on-mars#tab-living-on-mars/10 --> |title=Mars -- Making the New Earth: Living on Mars |publisher=National Geographic |access-date =ngày 20 tháng 8 năm 2011}}</ref> tương đương ở đỉnh Everest, nơi mà áp suất khí quyển là 33,7kPa (0,333atm). Dù con người không thể thở được trong bầu khí quyển này, áp suất của nó vẫn cao hơn giới hạn Armstrong (giới hạn mà khi đó áp suất không khí đủ thấp để nước trong người sôi ở nhiệt độ 37&nbsp;°C) và sẽ loại bỏ sự cần thiết của đồ bảo hộ. Thực vật phù du cũng có thể chuyển hoá khí CO<sub>2</sub> thành khí O<sub>2</sub>, rất quan trọng vì với nhiệt độ thấp của Sao Hoả, theo định lý Henry, sẽ có một tỉ lệ cao giữa CO<sub>2</sub> tan trong nước với CO<sub>2</sub> trong không khí.

There is presently enough carbon dioxide ({{CO2}}) as ice in the Martian south pole and absorbed by regolith (soil) on Mars that, if sublimated to gas by a climate warming of only a few

degrees, would increase the atmospheric pressure to {{convert|30|kPa|atm}},<ref name="channel.nationalgeographic.com">{{cite web|author=USA

|url=http://channel.nationalgeographic.com/channel/episodes/mars-making-the-new-earth/ <!-- DEAD LINK:

http://channel.nationalgeographic.com/episode/mars-making-the-new-earth-4588/living-on-mars#tab-living-on-mars/10 --> |title=Mars -- Making the New Earth: Living on Mars

|publisher=National Geographic |accessdate=2011-08-20}}</ref> comparable to the altitude of the peak of [[Mount Everest]], where the atmospheric pressure is

{{convert|33.7|kPa|atm}}. Although this would not be breathable by humans, it is above the [[Armstrong limit]] and would eliminate the present need for pressure suits. Phytoplankton can

also convert dissolved {{CO2}} into oxygen, which is important because Mars's low temperature will, by [[Henry's law]], lead to a high ratio of dissolved {{CO2}} to atmospheric

{{CO2}} in the flooded{{Clarify|date=February 2013}} northern basin.


=== Cung cấp Ammonia ===
=== Cung cấp Ammonia ===
Một phương pháp phức tạp hơn dùng amonia như một khí nhà kính. Có khả năng rằng một lượng lớn amonia tồn tại ở trạng thái đông đặc trên những tiểu hành tinh ở vòng ngoài hệ mặt trời. Việc dịch chuyển chúng về bầu khí quyển Sao Hoả là một điều khả thi.<ref name="ColeCox1964">{{chú thích sách |authors=[[Dandridge M. Cole]]; Donald William Cox|title=Islands in Space: The Challenge of the Planetoids |year=1964 |publisher=Chilton Books |pages=126–127}}</ref> &nbsp;Vì amonia (NH<sub>3</sub>) theo khối lượng phần lớn là Nitơ nên nó có thể cung cấp lượng khí trơ cần thiết cho không khí. Những va chạm thiên thạch chứa amonia nhỏ hơn nhưng kéo dài cũng sẽ giúp tăng nhiệt độ và khối lượng của khí quyển Sao Hoả.
Another more intricate method uses [[ammonia]] as a powerful [[greenhouse gas]]. It is possible that large amounts of it exist in frozen form on minor planets orbiting in the [[outer Solar

System]]. It may be possible to move these and send them into Mars's atmosphere.<ref name="ColeCox1964">{{Cite book |author1=[[Dandridge M. Cole]] |author2=Donald William Cox

|title=Islands in Space: The Challenge of the Planetoids |year=1964 |publisher=Chilton Books |pages=126–127}}</ref> Because ammonia (NH<sub>3</sub>) is mostly [[nitrogen]] by

weight, it could also supply the [[buffer gas]] for the atmosphere. Sustained smaller impacts will also contribute to increases in the temperature and mass of the atmosphere.

The need for a buffer gas is a challenge that will face any potential atmosphere builders. On [[Earth]], nitrogen is the primary atmospheric component, making up 78% of the atmosphere.


Nhu cầu cho khí trơ là một thách thức mà mọi việc xây dựng khí quyển đều phải vượt qua. Trên Trái Đất, Nitơ là thành phần chính của không khí, chiếm tới 78%. Sao Hoả cũng sẽ cần một thành phần khí trơ tương tự dù không nhất thiết phải nhiều như vậy. Việc thu thập đủ khí Nitơ, Argon hay một số khí trơ tương tự là rất khó.
Mars would require a similar buffer-gas component although not necessarily as much. Obtaining sufficient quantities of nitrogen, [[argon]] or some other comparatively inert gas is difficult.


=== Cung cấp các Hydrocarbon ===
=== Cung cấp các Hydrocarbon ===
Cách khác để tạo một bầu khí quyển cho Sao Hỏa là cung cấp khí Methane hoặc các Hydrocarbon khác,<ref name="aboutmyplanet.com">{{chú thích web |author=Mat Conway |url=http://www.aboutmyplanet.com/science-technology/now-were-there-terraforming-mars/ |title=Now We're There: Terraforming Mars |publisher=Aboutmyplanet.com |date=ngày 27 tháng 2 năm 2007 |access-date=ngày 20 tháng 8 năm 2011 |archive-date=2011-07-23 |archive-url=https://web.archive.org/web/20110723231654/http://www.aboutmyplanet.com/science-technology/now-were-there-terraforming-mars/ |url-status=dead }}</ref><ref name="BIOL0602_Lecture_2012">{{chú thích web|url=http://www.webdesignasia.com/extremophiles/pdfs/BIOL0602_Lecture%2012.pdf|title=Terraforming - Can we create a habitable planet?|ngày truy cập=2014-06-20|archive-date=2018-04-20|archive-url=https://web.archive.org/web/20180420074037/http://www.webdesignasia.com/extremophiles/pdfs/BIOL0602_Lecture%2012.pdf|url-status=dead}}</ref> những khí có nhiều trong khí quyển của mặt trăng Titan và trong các hồ của Titan. Methane có thể thoát vào khí quyển và hoạt động góp phần vào hiệu ứng nhà kính. Methane hoặc các hydrocarbon khác có thể giúp tăng áp suất của khí quyển. Các khí này có thể sử dụng để tạo ra nước và CO<sub>2</sub> cho khí quyển Sao Hỏa:


:[[Methane|CH<sub>4</sub>]] + 4 [[Sắt(III) oxide|Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub>]] → CO<sub>2</sub> + 2 [[Water|H<sub>2</sub>O]] + 8 [[Sắt(II) oxide|FeO]]
Cách khác để tạo một bầu khí quyển cho Sao Hỏa là cung cấp khí methane hoặc các Hydrocarbon khác,<ref name="aboutmyplanet.com">{{cite web|author=Mat Conway


Phản ứng này có thể xảy ra nhờ xúc tác bằng nhiệt hoặc bằng bức xạ tia cực tím mặt trời. Phần lớn sản phẩm của phản ứng sẽ là CO<sub>2</sub> và nước, các yếu tố cần thiết cho sự quang hợp - bước tiếp theo của quá trình cải sinh Sao Hỏa.
|url=http://www.aboutmyplanet.com/science-technology/now-were-there-terraforming-mars/ |title=Now We're There: Terraforming Mars |publisher=Aboutmyplanet.com |date=2007-02-27

|accessdate=2011-08-20}}</ref><ref name="BIOL0602_Lecture_2012">{{Cite web |url=http://www.webdesignasia.com/extremophiles/pdfs/BIOL0602_Lecture%2012.pdf

|title=Terraforming - Can we create a habitable planet?}}</ref> which are common in [[Titan (moon)|Titan's]] atmosphere (and on its [[Lakes of Titan|surface]]). The methane could be

vented into the atmosphere where it would act to compound the greenhouse effect.

Methane hoặc các hydrocarbon khác có thể giúp tăng áp suất của khí quyển. Các khí này có thể sử dụng để tạo ra nước và CO2 cho khí quyển Sao Hỏa:

:[[Methane|CH<sub>4</sub>]] + 4 [[Iron(III) oxide|Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub>]] → [[Carbon dioxide|{{CO2}}]] + 2 [[Water|H<sub>2</sub>O]] + 8 [[Iron(II) oxide|FeO]]

Phản ứng này có thể xảy ra nhờ xúc tác bằng nhiệt hoặc bằng bức xạ tia cực tím mặt trời. Phần lớn sản phẩm của phản ứng sẽ là CO2 và nước, các yếu tố cần thiết cho sự quang hợp -

bước tiếp theo của quá trình cải tạo Sao Hỏa.


=== Cung cấp Hydro ===
=== Cung cấp Hydro ===
Hydro có thể được cung cấp cho khí quyển và hình thành thủy quyển.<ref>{{chú thích web | url = http://ares.jsc.nasa.gov/HumanExplore/Exploration/EXLibrary/docs/ISRU/08Atmos.htm | title = Mars Atmospheric Resources | publisher = [[Johnson Space Center]] | date = ngày 28 tháng 9 năm 1998 | ngày truy cập = 2014-06-20 | archive-date = ngày 17 tháng 4 năm 2014 | archive-url = https://web.archive.org/web/20140417125205/http://ares.jsc.nasa.gov/HumanExplore/Exploration/EXLibrary/docs/ISRU/08Atmos.htm | url-status = dead }}</ref> Ví dụ, H<sub>2</sub> có thể phản ứng với Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub> từ đất trên Sao Hỏa, nước sẽ là sản phẩm của phản ứng:


:[[Hydrogen|H<sub>2</sub>]] + [[Sắt(III) oxide|Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub>]] → [[Water|H<sub>2</sub>O]] + 2[[Sắt(II) oxide|FeO]]
[[Hydrogen]] could be imported for atmosphere and [[hydrosphere]] engineering.<ref>
{{cite web| url = http://ares.jsc.nasa.gov/HumanExplore/Exploration/EXLibrary/docs/ISRU/08Atmos.htm | title = Mars Atmospheric Resources | publisher = [[Johnson Space Center]] |

date = 28 September 1998 }}</ref> For example, hydrogen could react with [[iron(III) oxide]] from the [[Martian soil]], which would give water as a product:

:[[Hydrogen|H<sub>2</sub>]] + [[Iron(III) oxide|Fe<sub>2</sub>O<sub>3</sub>]] → [[Water|H<sub>2</sub>O]] + 2[[Iron(II) oxide|FeO]]

Phụ thuộc vào mức độ của CO2 trong khí quyển, việc cung cấp H2: phản ứng với H2 sẽ sinh ra nước, nhiệt và than chì thông qua phản ứng Bosch. Hoặc, phản ứng của H2 với khí quyển

CO2 thông qua phản ứng Sabatier sẽ tạo ra methane và nước.

=== Use of fluorine compounds ===


Phụ thuộc vào mức độ của CO<sub>2</sub> trong khí quyển, việc cung cấp H<sub>2</sub>: phản ứng với H<sub>2</sub> sẽ sinh ra nước, nhiệt và than chì thông qua phản ứng Bosch. Hoặc, phản ứng của H<sub>2</sub> với CO<sub>2</sub> trong khí quyển thông qua phản ứng Sabatier sẽ tạo ra methane và nước.
Bởi vì sự ổn định lâu dài của thời tiết là cần thiết cho việc duy trì dân số của con người, the use of especially powerful fluorine-bearing [[greenhouse gases]], possibly including [[sulfur


=== Sử dụng các hợp chất Flo ===
hexafluoride]] or halocarbons such as [[chlorofluorocarbon]]s (or CFCs) and [[perfluorocarbon]]s (or PFCs), đã được đề xuất.<ref name=Gasses>{{Cite journal
Bởi vì sự ổn định lâu dài của thời tiết là cần thiết cho việc duy trì dân số, việc sử dụng những khí nhà kính mạnh có chứa Flo, có thể là Sulfur hexafluoride (SF6) hoặc các halocarbon như chlorofluorocarbons (CFC) và perfluorocarbons (PFC) đã được đề xuất.<ref name="Gasses">{{chú thích tạp chí
| last1 = Gerstell | first1 = M. F.
| last1 = Gerstell | first1 = M. F.
| last2 = Francisco |first2 = J. S.
| last2 = Francisco |first2 = J. S.
Dòng 282: Dòng 116:
| year = 2001
| year = 2001
| url = http://www.pnas.org/content/98/5/2154.full.pdf
| url = http://www.pnas.org/content/98/5/2154.full.pdf
}}</ref> Những loại khí này là những loại khí có triển vọng nhất để đưa vào bầu khí quyển Sao Hoả vì chúng là những khí nhà kính rất mạnh, gấp hàng ngàn lần khí CO<sub>2</sub>. Có thể làm điều này một cách khá rẻ tiên bằng cách bắn nhiều tên lửa đem CFC nén cho đâm vào Sao Hoả.<ref name="Lovelock" /> Khi tên lửa đâm xuống đất thì nó sẽ giải phóng lượng CFC mà nó đem theo và bầu khí quyển. Cần phải bắn một cách đều đặn nhiều loạt "tên lửa CFC" này trong vòng hơn một thập kỉ trong khi Sao Hoả biến đổi một cách hoá học và trở nên ấm hơn.
}}</ref> These gases are the most cited candidates for artificial insertion into the Martian atmosphere because they produce a strong effect as a greenhouse gas, thousands of times stronger


Để làm thăng hoa những sông băng CO<sub>2</sub> ở cực nam, bầu khí quyển Sao Hoả sẽ cần thêm khoảng 0.3 microbar CFC, tương đương với một khối lượng khoảng 39 triệu mét khối. Lượng CFC này gấp khoảng 3 lần lượng CFC mà đã được sản xuất trên Trái Đất từ năm 1972 đến 1992 (khi quá trình sản xuất CFC đã bị cấm bởi các hiệp ước quốc tế). Các cuộc thăm dò khoáng vật trên Sao Hoả đã ước tính được một lượng lớn Flo trong thành phần cấu tạo của nó, với mật độ 32 ppm theo khối lượng so với chỉ 19.4 ppm trên Trái Đất.<ref name="Gasses" /> Một phương pháp đề nghị khai thác khoáng sản giàu Flo trên Sao Hoả để sản xuất CFC và PFC, duy trì nhiệt độ bầu khí quyển giống Trái Đất trên Sao Hoả mà đã được tạo nên trước đó.<ref name="Gasses" /> Phương pháp này giả sử rằng trên Sao Hoả những khoáng sản đó ít nhất phải phổ biến như trên Trái Đất, để duy trì việc sản xuất những khí nhà kính tối ưu (CF<sub>3</sub>SCF<sub>3</sub>, CF<sub>3</sub>OCF<sub>2</sub>OCF<sub>3</sub>, CF<sub>3</sub>SCF<sub>2</sub>SCF<sub>3</sub>, CF<sub>3</sub>OCF<sub>2</sub>NFCF<sub>3</sub>, C<sub>12</sub>F<sub>27</sub>N) cho việc giữ ấm Sao Hoả.
than {{CO2}}. This can conceivably be done relatively cheaply by sending rockets with payloads of compressed CFCs on collision courses with Mars.<ref name=Lovelock/> When the

rockets crash onto the surface they release their payloads into the atmosphere. A steady barrage of these "CFC rockets" would need to be sustained for a little over a decade while Mars

changes chemically and becomes warmer.

In order to sublimate the south polar {{CO2}} glaciers, Mars would require the introduction of approximately 0.3 microbars of CFCs into Mars's atmosphere. This is equivalent to a mass

of approximately 39 million metric tons. This is about three times the amount of CFC manufactured on Earth from 1972 to 1992 (when CFC production was banned by international treaty).

Mineralogical surveys of Mars estimate the elemental presence of fluorine in the bulk composition of Mars at 32 ppm by mass vs. 19.4 ppm for the Earth.<ref name="Gasses"/>

A proposal to mine fluorine-containing minerals as a source of CFCs and PFCs is supported by the belief that because these minerals are expected to be at least as common on Mars as on

Earth, this process could sustain the production of sufficient quantities of optimal greenhouse compounds (CF<sub>3</sub>SCF<sub>3</sub>,

CF<sub>3</sub>OCF<sub>2</sub>OCF<sub>3</sub>, CF<sub>3</sub>SCF<sub>2</sub>SCF<sub>3</sub>, CF<sub>3</sub>OCF<sub>2</sub>NFCF<sub>3</sub>,

C<sub>12</sub>F<sub>27</sub>N) to maintain Mars at 'comfortable' temperatures, as a method of maintaining an Earth-like atmosphere produced previously by some other means.<ref

name=Gasses/>


=== Sử dụng những tấm gương bay trên quỹ đạo quanh Sao Hỏa ===
=== Sử dụng những tấm gương bay trên quỹ đạo quanh Sao Hỏa ===
Những tấm gương được làm từ phim PET tráng nhôm có thể được đưa vào quỹ đạo quanh Sao Hoả để tăng lượng ánh sáng mà nó nhận được.<ref name="Requirements"/> Những tấm gương này sẽ hướng ánh sáng xuống đất và trực tiếp tăng nhiệt độ bề mặt Sao Hoả. Chúng có thể trở thành những vệ tinh địa tĩnh, hoạt động như những cánh buồm mặt trời để giữ mình tại một vị trí cố định so với Sao Hoả, ở gần địa cực, để làm thăng hoa những phiến băng khô CO2 và giúp tăng hiệu ứng nhà kính.


=== Giảm thiểu suất phản chiếu ===
Những tấm gương làm bởi các tấm phim tráng nhôm có thể được đặt trên quỹ đạo quanh Sao Hỏa đểMirrors made of thin aluminized [[PET film (biaxially oriented)|PET film]] could be
Giảm suất phản chiếu của bề mặt Sao Hoả đi sẽ giúp hấp thụ ánh nắng tốt hơn.<ref>{{chú thích web| url=http://www.nexialquest.com/The%20Terraformation%20of%20Worlds.pdf| title=The Terraformation of Worlds| author=Peter Ahrens| publisher=Nexial Quest| format=PDF| access-date =ngày 18 tháng 10 năm 2007| archive-date = ngày 9 tháng 6 năm 2019 | archive-url=https://web.archive.org/web/20190609033202/http://www.nexialquest.com/The%20Terraformation%20of%20Worlds.pdf| url-status=dead}}</ref> Có thể làm điều này bằng cách rải bụi đen từ những mặt trăng của Sao Hoả, Phobos và Deimos, chính là một trong số những thiên thể tối nhất trong Hệ Mặt Trời; hoặc có thể du nhập những sinh vật tối màu có thể sống ở điều kiện khắc nghiệt như vi khuẩn, tảo và địa y. Khi đó mặt đất sẽ có thể hấp thụ nhiều ánh nắng hơn, làm ấm bầu khí quyển.


Nếu tảo hoặc một sinh vật xanh nào khác tồn tại, chúng cũng sẽ góp một lượng Ôxi nhỏ cho không khí, dù không đủ cho con người thở. Quá trình trao đổi tạo Ôxi là rất phụ thuộc vào nước. CO<sub>2</sub> phần lớn được chuyển đổi thành hiđrat cacbon.<ref>{{chú thích web | url = http://www.howplantswork.com/2009/02/16/plants-dont-convert-co2-into-o2/ | tiêu đề = Plants Don’t Convert CO2 into O2 | author = | ngày = | ngày truy cập = 28 tháng 9 năm 2015 | nơi xuất bản = How Plants Work | ngôn ngữ = | archive-date = 2015-08-22 | archive-url = https://web.archive.org/web/20150822103103/http://www.howplantswork.com/2009/02/16/plants-dont-convert-co2-into-o2/ | url-status = dead }}</ref> Vào ngày 26 tháng 4 năm 2012, các nhà khoa học đã thông báo rằng địa y đã sống sót và cho thấy kết quả đáng chú ý với khả năng thích nghi quá trình quang hợp trong vòng 34 ngày dưới điều kiện trên Sao Hoả tại phòng thí nghiệm Mars Simulation Laboratory (MSL) được vận hành bởi German Aerospace Center (DLR).<ref name="Skymania-20120427">{{chú thích web |last=Baldwin |first=Emily |title=Lichen survives harsh Mars environment |url=http://www.skymania.com/wp/2012/04/lichen-survives-harsh-martian-setting.html |date=ngày 26 tháng 4 năm 2012 |publisher=Skymania |access-date=ngày 27 tháng 4 năm 2012 |archive-date=2012-05-28 |archive-url=https://web.archive.org/web/20120528145425/http://www.skymania.com/wp/2012/04/lichen-survives-harsh-martian-setting.html/ |url-status=dead }}</ref><ref name="EGU-20120426">{{chú thích web |last1=de Vera |first1=J.-P. |last2=Kohler |first2=Ulrich |title=The adaptation potential of extremophiles to Martian surface conditions and its implication for the habitability of Mars |url=http://media.egu2012.eu/media/filer_public/2012/04/05/10_solarsystem_devera.pdf |date=ngày 26 tháng 4 năm 2012 |publisher=[[European Geosciences Union]] |access-date =ngày 27 tháng 4 năm 2012 |archive-date = ngày 8 tháng 6 năm 2012 |archive-url=https://www.webcitation.org/68GROCilv?url=http://media.egu2012.eu/media/filer_public/2012/04/05/10_solarsystem_devera.pdf |url-status=dead }}</ref>
placed in orbit around Mars to increase the total [[insolation]] it receives.<ref name="Requirements"/> This would direct the sunlight onto the surface and could increase Mars's surface

temperature directly. The mirror could be positioned as a [[statite]], using its effectiveness as a [[solar sail]] to orbit in a stationary position relative to Mars, gần các cực, làm bay hơi các tấm

băng CO2 để đẩy nhanh thêm hiệu ứng nhà kính.

=== Albedo reduction ===

Reducing the [[albedo]] of the Martian surface would also make more efficient use of incoming sunlight.<ref>{{cite web|

url=http://www.nexialquest.com/The%20Terraformation%20of%20Worlds.pdf| title=The Terraformation of Worlds| author=Peter Ahrens| publisher= Nexial Quest| format=PDF|

accessdate=2007-10-18}}</ref> This could be done by spreading dark dust from Mars's moons, [[Phobos (moon)|Phobos]] and [[Deimos (moon)|Deimos]], which are among the

blackest bodies in the Solar System; or by introducing dark [[extremophile]] microbial life forms such as [[lichen]]s, [[algae]] and [[bacteria]]. The ground would then absorb more sunlight,

warming the atmosphere.

If algae or other green life were established, it would also contribute a small amount of [[oxygen]] to the atmosphere, though not enough to allow humans to breathe. The conversion process

to produce oxygen is highly reliant upon water. The {{CO2}} is mostly converted to

carbohydrates.<ref>http://www.howplantswork.com/2009/02/16/plants-dont-convert-co2-into-o2/</ref> On 26 April 2012, scientists reported that lichen survived and showed remarkable

results on the adaptation capacity of photosynthetic activity within the simulation time of 34 days under [[Life on Mars#Life under simulated Martian conditions|Martian conditions]] in the

Mars Simulation Laboratory (MSL) maintained by the [[German Aerospace Center]] (DLR).<ref name="Skymania-20120427">{{cite web |last=Baldwin |first=Emily |title=Lichen survives

harsh Mars environment |url=http://www.skymania.com/wp/2012/04/lichen-survives-harsh-martian-setting.html |date=26 April 2012 |publisher=Skymania |accessdate=27 April 2012

}}</ref><ref name="EGU-20120426">{{cite web |last1=de Vera |first1=J.-P. |last2=Kohler |first2=Ulrich |title=The adaptation potential of extremophiles to Martian surface conditions and

its implication for the habitability of Mars |url=http://media.egu2012.eu/media/filer_public/2012/04/05/10_solarsystem_devera.pdf |date=26 April 2012 |publisher=[[European Geosciences

Union]] |accessdate=27 April 2012 }}</ref>


=== Va chạm của tiểu hành tinh ===
=== Va chạm của tiểu hành tinh ===
Một cách khác để tăng nhiệt độ Sao Hỏa là va chạm trực tiếp một tiểu hành tinh nhỏ vào bề mặt Sao Hỏa. Điều này có thể thực hiện bằng cách sử dụng các tia laser ngoài không gian hoặc
Một cách khác để tăng nhiệt độ Sao Hỏa là va chạm trực tiếp một tiểu hành tinh nhỏ vào bề mặt Sao Hỏa. Điều này có thể thực hiện bằng cách sử dụng các tia laser ngoài không gian hoặc một số phương pháp khác để làm biến đổi quỹ đạo tiểu hành tinh. Năng lượng va chạm sẽ được giải phóng thành nhiệt. Lượng nhiệt này có thể làm bay hơi CO<sub>2</sub>, hoặc nếu ở nước tồn tại dạng lỏng ở giai đoạn này của quá trình cải tạo, nước sẽ bay hơi và hơi nước cũng là một loại khí nhà kính. Các tiểu hành tinh có thể được lựa chọn dựa vào thành phần của chúng, như [[amonia]], sẽ được phân tán vào Sao Hỏa khi va chạm, bổ sung thêm khí nhà kính vào khí quyển. Các tia chớp có thể tạo nên các lớp nitrat trong đất Sao Hỏa.<ref name="channel.nationalgeographic.com"/> Sự tác động của các tiểu hành tình vào các lớp nitrat này sẽ giải phóng thêm nitơ và oxy vào khí quyển.

một số phương pháp khác để làm biến đổi quỹ đạo tiểu hành tinh. Năng lượng va chạm sẽ được giải phóng thành nhiệt. Lượng nhiệt này có thể làm bay hơi {{CO2}} or, if there is liquid

water present at this stage of the terraforming process, could vaporize it to steam, which is also a [[greenhouse gas]]. Asteroids could also be chosen for their composition, such as

[[ammonia]], which would then disperse into the atmosphere on impact, adding greenhouse gases to the [[atmosphere]]. Lightning may have built up nitrate beds in Mars's soil.<ref

name="channel.nationalgeographic.com"/> Impacting asteroids on these nitrate beds would release additional nitrogen and oxygen into the atmosphere.

==Thermodynamics of terraforming==
The overall energy required to sublimate the {{CO2}} from the south polar ice cap is modeled by Zubrin and McKay.<ref name="Requirements"/> Raising temperature of the poles by four

kelvin would be necessary in order to trigger a runaway greenhouse effect. If using orbital mirrors, an estimated 120 MWe-years would be required in order to produce mirrors large enough

to vaporize the ice caps. This is considered the most effective method, though the least practical. If using powerful halocarbon greenhouse gases, an order of 1000 MWe-years would be

required to accomplish this heating. Although ineffectual in comparison, it is considered the most practical method. Impacting an asteroid, which is often considered a synergistic effect, would


==Nhiệt động học của quá trình cải sinh==
require approximately four 10-billion-tonne ammonia-rich asteroids to trigger the runaway greenhouse effect, totaling an eight degree increase in temperature.
Toàn bộ năng lượng cần thiết để làm bốc hơi CO<sub>2</sub> từ khối băng cực nam được mô hình hóa bởi Zubrin và McKay.<ref name="Requirements"/> Việc tăng nhiệt độ 2 cực thêm 4 độ kelvin sẽ là cần thiết để kích thích hiệu ứng nhà kính. Nếu sử dụng các gương trên quỹ đạo, ước tính cần 120 MWe-năm would để tạo ra các gương đủ lớn để làm bay hơi băng ở các cực. Đây được coi là phương pháp hiệu quả nhất, mặc dù ít thực tiễn. Nếu sử dụng các khí nhà kính halocarbon, sẽ cần 1000 MWe-năm để làm được điều này. Mặc dù không hiệu quả khi so sánh, nó lại được công nhận là phương pháp nhiều thực tiễn nhất. Việc va chạm với một tiểu hành tinh, thường được coi là một hiệu ứng hợp lực, sẽ cần xấp xỉ 4 tiểu hành tinh chứa 10 tỷ tấn ammonia để kích hoạt hiệu ứng nhà kính, với nhiệt độ tăng lên tổng cộng 8 độ.


==Xem thêm==
==Xem thêm==
* [[Thuộc địa hóa hành tinh Ceres]]
* [[Thuộc địa hóa hành tinh Ceres]]
* [[Thuộc địa hóa Sao Hỏa]]
* [[Định trên Sao Hỏa]]
* [[Sao Hỏa cho sự sống]]
* [[Sự sống trên Sao Hỏa]]
* [[Cải tạo vệ tinh Europa]]
* [[Cải tạo vệ tinh Europa]]
* [[Cải tạo Sao Kim]]
* [[Địa khai hóa Sao Kim|Cải tạo Sao Kim]]


==Tham khảo==
==Tham khảo==
{{tham khảo|30em}}
<!--Please use this reference generator: http://toolserver.org/~magnus/makeref.php -->
{{Reflist|30em}}


==Liên kết ngoài==
==Liên kết ngoài==
*[https://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/tuong-tuong-cuoc-song-cua-con-nguoi-khi-dinh-cu-tren-sao-hoa-3661486.html Tưởng tượng cuộc sống của con người khi định cư trên sao Hỏa] trên [[VnExpress]]
*{{Wayback|url=http://aerospacescholars.jsc.nasa.gov/HAS/cirr/em/10/10.cfm|title=NASA - Aerospace Scholars: Terraforming Mars|date=20070915152013}}
*{{Wayback|url=http://aerospacescholars.jsc.nasa.gov/HAS/cirr/em/10/10.cfm|title=NASA - Aerospace Scholars: Terraforming Mars|date=20070915152013}}
*[http://www.spectrum.ieee.org/oct07/5584 Recent Arthur C Clarke interview mentions terraforming]
*[http://www.spectrum.ieee.org/oct07/5584 Recent Arthur C Clarke interview mentions terraforming] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20081229002652/http://www.spectrum.ieee.org/oct07/5584 |date = ngày 29 tháng 12 năm 2008}}
*[http://www.redcolony.com/ Red Colony]
*[http://www.redcolony.com/ Red Colony]
*[http://society.terraformers.ca/ Terraformers Society of Canada]
*[http://society.terraformers.ca/ Terraformers Society of Canada] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20070123205649/http://society.terraformers.ca/ |date = ngày 23 tháng 1 năm 2007}}
*[http://www.users.globalnet.co.uk/~mfogg/zubrin.htm Research Paper: Technological Requirements for Terraforming Mars]
*[http://www.users.globalnet.co.uk/~mfogg/zubrin.htm Research Paper: Technological Requirements for Terraforming Mars]
*[http://www.nexialquest.com/The%20Terraformation%20of%20Worlds.pdf Peter Ahrens The Terraformation of Worlds]
*[http://www.nexialquest.com/The%20Terraformation%20of%20Worlds.pdf Peter Ahrens The Terraformation of Worlds] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20190609033202/http://www.nexialquest.com/The%20Terraformation%20of%20Worlds.pdf |date = ngày 9 tháng 6 năm 2019}}
*[http://www.marsdrive.com/ MARSDRIVE: Colonizing Mars]. Red Colony parent organization planning the future exploration and colonization of planet Mars.
*[http://www.marsdrive.com/ MARSDRIVE: Colonizing Mars]. Red Colony - tổ chức đầu tiên với kế hoạch khai phá tương lai và thuộc địa hóa Sao Hỏa.

{{Sao Hỏa}}
{{Định cư ngoài không gian}}
{{Thái Dương Hệ}}
{{Các chủ đề|Sao Hỏa|Hệ Mặt Trời}}

[[Thể loại:Thám hiểm Sao Hỏa]]
[[Thể loại:Cải tạo hành tinh]]

Bản mới nhất lúc 22:20, ngày 8 tháng 7 năm 2024

Ý tưởng phác họa của một họa sĩ về quá trình cải sinh Sao Hỏa.

Cải tạo Sao Hỏa là một quá trình giả định mà các nhà khoa học sẽ biến đổi khí hậu của Sao Hỏa, đặc điểm bề mặt, và các thuộc tính ban đầu với mục đích tạo nên một môi trường phù hợp cho sự sống con người, nhằm khiến việc khai phá Sao Hỏa trở nên an toàn và ổn định hơn với con người.

Ý tưởng dựa trên giả thuyết rằng môi trường của một hành tinh có thể được biến đổi bằng các tác động nhân tạo. Tuy nhiên, tính khả thi của việc tạo ra một bầu khí quyển trên Sao Hỏa vẫn chưa rõ ràng. Đã có một vài phương pháp được đề xuất trong cuộc họp, trong đó mặc dù có những phương pháp tiêu tốn rất nhiều tài nguyên và tiền bạc, có những phương pháp mà có thể thực hiện được bằng công nghệ hiện tại và trong tương lai.[1]

Động cơ và vấn đề đạo lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Sự gia tăng dân số và nhu cầu sử dụng tài nguyên trong tương lai có thể buộc con người phải khai phá các hành tinh khác ngoài Trái Đất, như Sao Hỏa, Mặt Trăng, và các hành tinh xung quanh. Việc định cư vũ trụ sẽ giúp việc khai thác năng lượng và các nguồn tài nguyên của Hệ Mặt Trời dễ dàng hơn.[2]

Trong nhiều khía cạnh, Sao Hỏa là hành tinh giống Trái Đất nhất trong các hành tinh còn lại của Hệ Mặt Trời. Sao Hỏa được tin rằng[3] đã từng có một môi trường khá giống Trái Đất ở thời kỳ đầu lịch sử của nó, với một khí quyển dày hơn và lượng nước dồi dào nhưng đã mất dần trong hàng trăm triệu năm. Với nền móng tương tự và khoảng cách gần với Trái Đất, Sao Hỏa là một trong những mục tiêu cải tạo hiệu quả và dễ dàng nhất trong Hệ Mặt Trời.

Việc xem xét những vấn đề đạo lý của quá trình cải sinh bao gồm khả năng hủy diệt hoặc thay thế sự sống trên Sao Hỏa, thậm chí là vi sinh vật, nếu nó tồn tại.

Thách thức và giới hạn

[sửa | sửa mã nguồn]

Môi trường Sao Hỏa hiện hữu một số các thách thức cần khắc phục và việc mở rộng quy mô cải tạo có thể bị giới hạn bởi các nhân tố môi trường chính.

Trọng trường yếu

[sửa | sửa mã nguồn]

Trọng lực trên bề mặt Sao Hỏa chỉ bằng 38% so với Trái Đất. Các nhà khoa học không rõ liệu trọng lực của nó có đủ để ngăn chặn các vấn đề sức khỏe xuất hiện ở môi trường không trọng lực hay không.[4]

Hơn nữa, trọng lực thấp của Sao Hỏa sẽ khiến nó khó có thể giữ lại bầu khí quyển như Trái Đất hay Sao Kim.[5] Trái Đất và Sao Kim đều có bầu khí quyển dày đặc bao quanh, mặc dù chúng phải hứng chịu nhiều hơn những cơn gió mặt trời mà sẽ thổi bay những vật chất khí trên hành tinh. Việc duy trì các nguồn khí trên Sao Hỏa có thể là cần thiết để đảm bảo rằng một bầu khí quyển đậm đặc cho con người được duy trì trong thời gian dài.

Hứng chịu những ảnh hưởng của vũ trụ

[sửa | sửa mã nguồn]

Sao Hoả thiếu một từ quyển để làm giảm bức xạ mặt trời và giữ lại bầu khí quyển. Các nhà khoa học tin rằng các trường từ được dò thấy trên Sao Hỏa là dấu tích còn lại của từ quyển mà đã biến mất vào thời kỳ đầu của Sao Hỏa.

Việc thiếu đi từ quyển là một lý do gây nên bầu khí quyển mỏng manh của Sao Hỏa. Các nguyên tử của gió mặt trời bên trong khí quyển Sao Hỏa đã được phát hiện bởi các máy dò bay trên quỹ đạo Sao Hỏa, Sao Kim. Tuy nhiên, rõ ràng chứng minh rằng sự thiếu đi một từ quyển sẽ không làm mất đi khí quyển dày đặc của nó.

Trái Đất chứa rất nhiều nước bởi vì tầng điện ly chịu ảnh hưởng của từ quyển. Các ion Hydro hiện diện trong tầng điện ly di chuyển rất nhanh do có khối lượng nhỏ, nhưng vẫn không thể thoát ra ngoài vũ trụ được bởi quỹ đạo của chúng sẽ bị uốn cong trở lại bầu khí quyển dưới tác dụng của từ trường. Sao Kim có bầu khí quyển dày đặc, nhưng dấu vết của hơi nước chỉ ở mức 20 ppm do nó không có từ trường. Nước trong khí quyển của Sao Hỏa cũng bị thoát vào vũ trụ. Trái Đất còn được tăng cường sự bảo vệ bởi tầng ozone. Tia cực tím đã bị ngăn chặn trước khi nó có thể xâm nhập khí quyển và phân giải nước thành hydro và oxy. Bởi vì chỉ có số ít hơi nước tồn tại ở tầng đối lưu và tầng ozone nằm phía trên tầng bình lưu, nên chỉ một lượng nước nhỏ bị phân giải thành hydro và oxy.

Từ trường của Trái Đất là 31µT. Sao Hỏa cũng sẽ cần một từ trường mạnh tương đương như vậy để bù đắp ảnh hưởng của những cơn gió mặt trời. Công nghệ tạo ra một từ trường bao phủ hành tinh hiện vẫn chưa xuất hiện. Tầm quan trọng của từ quyển đã được đặt dấu hỏi. Trong quá khứ, Trái Đất đã từng có những giai đoạn mà từ quyển đổi hướng,[6] nhưng sự sống vẫn tiếp diễn. Bầu khí quyển dày đặc giống như Trái Đất có thể bảo vệ Sao Hỏa trước bức xạ mặt trời trong điều kiện thiếu từ quyển.

Thuận lợi

[sửa | sửa mã nguồn]
Sao Hỏa được cải sinh trên giả thuyết

Theo các nhà lý luận hiện đại, Sao Hỏa nằm bên ngoài rìa của "vùng cư trú được", một vùng trong Hệ Mặt Trời mà thích hợp cho sự sống. Sao Hỏa nằm ở phần biên của vùng được biết đến với tên gọi là "vùng cư trú mở rộng" nơi mà các khí nhà kính dày đặc có thể tạo ra một áp suất khí quyển vừa đủ để giúp nước tồn tại ở dạng lỏng trên bề mặt hành tinh. Do đó, Sao Hỏa có tiềm năng hỗ trợ thủy quyển và sinh quyển.[cần dẫn nguồn] Sự thiếu hụt cả từ trường và các hoạt động địa chất trên Sao Hỏa có thể là do kích thước nhỏ bé của nó, khiến cho phần lõi Sao Hỏa nguội nhanh hơn nhiều so với Trái Đất, mặc dù chi tiết của quá trình đó vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng. Các nhà khoa học cho rằng Sao Hỏa đã từng có một môi trường tương tự như Trái Đất ở giai đoạn đầu trong quá trình phát triển của nó.[7] Mặc dù nước đã từng hiện diện trên bề mặt Sao Hỏa, giờ đây nước chỉ tồn tại trên 2 cực, là những tầng đóng băng bên dưới bề mặt của hành tinh. Ngày 26/9/2013, các nhà khoa học NASA thông báo robot tự hành Curiosity đã phát hiện lượng nước lớn chiếm 1.5-3% khối lượng của mẫu đá ở vùng đồng bằng Aeolis Palus khu vực miệng núi lửa Gale.[8][9][10][11][12]

Đất đá và khí quyển Sao Hỏa có chứa nhiều nguyên tố chính cần thiết cho sự sống. Một lượng lớn băng nước tồn tại bên dưới bề mặt Sao Hỏa, cũng như trên bề mặt 2 cực, đang tồn tại ở dạng hỗn hợp với đá khô, CO2 đóng băng. Lượng đáng kể nước được lưu trữ ở cực nam của Sao Hỏa, nếu tan chảy, sẽ tương đương với một đại dương sâu 11m bao phủ toàn bộ hành tinh.[13] Băng khô CO2 ở 2 cực bay hơi vào khí quyển vào mùa hè trên Sao Hỏa, và những lượng nhỏ nước còn sót lại, sẽ nhanh chóng bị những trận gió với vận tốc lên tới 400 km/h thổi bay.[cần dẫn nguồn] Sự thay đổi các mùa đưa một lượng lớn bụi và hơi nước vào trong khí quyển, có tiềm năng tạo thành những đám mây kết tủa như Trái Đất.[cần dẫn nguồn] Hầu hết oxy trên khí quyển Sao Hỏa tồn tại trong CO2 - thành phần chính của khí quyển hành tinh này. Phân tử O2 chỉ tồn tại với một lượng rất nhỏ. Lượng lớn nguyên tố oxy cũng được tìm thấy trong sắt oxit trên bề mặt Sao Hỏa, và trong đất đá, dưới dạng các Nitrat.[14] Một phân tích mẫu đá của tàu đổ bộ Phoenix đã chỉ ra sự hiện diện của perchlorat, hợp chất hóa học được sử dụng để phân giải oxy trong các thiết bị sản xuất oxy bằng phương pháp hóa học.[15] Điện phân cũng có thể được sử dụng để phân giải nước trên Sao Hỏa thành oxy và hydro.[cần dẫn nguồn]

Các chiến lược và phương pháp được đề xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
So sánh khi quyển khô
Sao Hoả Trái Đất
Áp suất 0.6kPa 101.3kPa
Carbon dioxide (CO2) 96.0% 0.04%
Argon (Ar) 2.1% 0.93%
Nitrogen (N2) 1.9% 78.08%
Oxygen (O2) 0.145% 20.94%
Ý tưởng của họa sĩ về một Sao Hỏa được cải sinh tập trung vào khu vực Tharsis
Ý tưởng của họa sĩ về một Sao Hỏa được cải sinh. Bức tranh này lấy trung tâm xấp xỉ tại đường kinh tuyến gốc, 30° Vĩ Bắc và một đại dương mà đã được giả thiết có mặt nước biển thấp hơn độ cao mặt đất trung bình 2 kilômét. Đại dương này nhấn chìm những gì mà giờ ta gọi là Vastitas Borealis, Acidalia Planitia, Chryse Planitia, và Xanthe Terra; phần đất liền nhìn thấy được là Tempe Tera ở bên trái, Aonia Terra ở dưới cùng, Tera Mẻidiani ở góc dưới phải, và Arabia Terra ở phía trên phải. Những dòng sông mà đổ ra biển ở phía góc dưới bên phải ở chỗ mà ngày nay gọi là Valles Marineris và Ares Vallis và hồ nước lớn ở góc dưới bên phải nằm ở chỗ mà ngày nay là Aram Chaos.

Quá trình cải sinh Sao Hỏa sẽ cần 3 thay đổi chủ chốt cùng lúc: xây dựng một bầu khí quyển, giữ ấm, và ngăn chặn khí quyển thoát ra ngoài vũ trụ. Khí quyển của Sao Hỏa tương đối mỏng và áp suất khí quyển tại bề mặt Sao Hỏa rất thấp. Bởi vì khí quyển sao hỏa chủ yếu bao gồm CO2, một loại khí nhà kính, nên một khi Sao Hỏa bắt đầu nóng lên, CO2 sẽ giúp giữ lại nhiệt lượng gần bề mặt. Hơn nữa, khi nóng lên, thêm nhiều CO2 sẽ được giải phóng vào khí quyển từ trữ lượng băng khô CO2 ở 2 cực, giúp đẩy nhanh hiệu ứng nhà kính. Điều này có nghĩa rằng 2 quá trình hình thành bầu khí quyển và làm nóng khí quyển sẽ tương trợ nhau, bổ trợ vào quá trình cải sinh Sao Hỏa.

Môi trường khắc nghiệt được tạo ra bởi chuyển động các luồng khí sẽ hình thành và duy trì các cơn bão bụi lớn, cũng làm nóng bầu khí quyển (bằng việc hấp thụ bức xạ mặt rời).

Làm bay hơi Carbon dioxide

[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện tại có đủ CO2 ở 2 địa cực và bên trong lớp đất đá trên Sao Hỏa để nếu chúng bốc hơi do việc khí hậu ấm lên vài độ, sẽ làm tăng áp suất khí quyển lên tới 30 kilôpascal (0,30 atm),[16] tương đương ở đỉnh Everest, nơi mà áp suất khí quyển là 33,7kPa (0,333atm). Dù con người không thể thở được trong bầu khí quyển này, áp suất của nó vẫn cao hơn giới hạn Armstrong (giới hạn mà khi đó áp suất không khí đủ thấp để nước trong người sôi ở nhiệt độ 37 °C) và sẽ loại bỏ sự cần thiết của đồ bảo hộ. Thực vật phù du cũng có thể chuyển hoá khí CO2 thành khí O2, rất quan trọng vì với nhiệt độ thấp của Sao Hoả, theo định lý Henry, sẽ có một tỉ lệ cao giữa CO2 tan trong nước với CO2 trong không khí.

Cung cấp Ammonia

[sửa | sửa mã nguồn]

Một phương pháp phức tạp hơn dùng amonia như một khí nhà kính. Có khả năng rằng một lượng lớn amonia tồn tại ở trạng thái đông đặc trên những tiểu hành tinh ở vòng ngoài hệ mặt trời. Việc dịch chuyển chúng về bầu khí quyển Sao Hoả là một điều khả thi.[17]  Vì amonia (NH3) theo khối lượng phần lớn là Nitơ nên nó có thể cung cấp lượng khí trơ cần thiết cho không khí. Những va chạm thiên thạch chứa amonia nhỏ hơn nhưng kéo dài cũng sẽ giúp tăng nhiệt độ và khối lượng của khí quyển Sao Hoả.

Nhu cầu cho khí trơ là một thách thức mà mọi việc xây dựng khí quyển đều phải vượt qua. Trên Trái Đất, Nitơ là thành phần chính của không khí, chiếm tới 78%. Sao Hoả cũng sẽ cần một thành phần khí trơ tương tự dù không nhất thiết phải nhiều như vậy. Việc thu thập đủ khí Nitơ, Argon hay một số khí trơ tương tự là rất khó.

Cung cấp các Hydrocarbon

[sửa | sửa mã nguồn]

Cách khác để tạo một bầu khí quyển cho Sao Hỏa là cung cấp khí Methane hoặc các Hydrocarbon khác,[18][19] những khí có nhiều trong khí quyển của mặt trăng Titan và trong các hồ của Titan. Methane có thể thoát vào khí quyển và hoạt động góp phần vào hiệu ứng nhà kính. Methane hoặc các hydrocarbon khác có thể giúp tăng áp suất của khí quyển. Các khí này có thể sử dụng để tạo ra nước và CO2 cho khí quyển Sao Hỏa:

CH4 + 4 Fe2O3 → CO2 + 2 H2O + 8 FeO

Phản ứng này có thể xảy ra nhờ xúc tác bằng nhiệt hoặc bằng bức xạ tia cực tím mặt trời. Phần lớn sản phẩm của phản ứng sẽ là CO2 và nước, các yếu tố cần thiết cho sự quang hợp - bước tiếp theo của quá trình cải sinh Sao Hỏa.

Cung cấp Hydro

[sửa | sửa mã nguồn]

Hydro có thể được cung cấp cho khí quyển và hình thành thủy quyển.[20] Ví dụ, H2 có thể phản ứng với Fe2O3 từ đất trên Sao Hỏa, nước sẽ là sản phẩm của phản ứng:

H2 + Fe2O3H2O + 2FeO

Phụ thuộc vào mức độ của CO2 trong khí quyển, việc cung cấp H2: phản ứng với H2 sẽ sinh ra nước, nhiệt và than chì thông qua phản ứng Bosch. Hoặc, phản ứng của H2 với CO2 trong khí quyển thông qua phản ứng Sabatier sẽ tạo ra methane và nước.

Sử dụng các hợp chất Flo

[sửa | sửa mã nguồn]

Bởi vì sự ổn định lâu dài của thời tiết là cần thiết cho việc duy trì dân số, việc sử dụng những khí nhà kính mạnh có chứa Flo, có thể là Sulfur hexafluoride (SF6) hoặc các halocarbon như chlorofluorocarbons (CFC) và perfluorocarbons (PFC) đã được đề xuất.[21] Những loại khí này là những loại khí có triển vọng nhất để đưa vào bầu khí quyển Sao Hoả vì chúng là những khí nhà kính rất mạnh, gấp hàng ngàn lần khí CO2. Có thể làm điều này một cách khá rẻ tiên bằng cách bắn nhiều tên lửa đem CFC nén cho đâm vào Sao Hoả.[14] Khi tên lửa đâm xuống đất thì nó sẽ giải phóng lượng CFC mà nó đem theo và bầu khí quyển. Cần phải bắn một cách đều đặn nhiều loạt "tên lửa CFC" này trong vòng hơn một thập kỉ trong khi Sao Hoả biến đổi một cách hoá học và trở nên ấm hơn.

Để làm thăng hoa những sông băng CO2 ở cực nam, bầu khí quyển Sao Hoả sẽ cần thêm khoảng 0.3 microbar CFC, tương đương với một khối lượng khoảng 39 triệu mét khối. Lượng CFC này gấp khoảng 3 lần lượng CFC mà đã được sản xuất trên Trái Đất từ năm 1972 đến 1992 (khi quá trình sản xuất CFC đã bị cấm bởi các hiệp ước quốc tế). Các cuộc thăm dò khoáng vật trên Sao Hoả đã ước tính được một lượng lớn Flo trong thành phần cấu tạo của nó, với mật độ 32 ppm theo khối lượng so với chỉ 19.4 ppm trên Trái Đất.[21] Một phương pháp đề nghị khai thác khoáng sản giàu Flo trên Sao Hoả để sản xuất CFC và PFC, duy trì nhiệt độ bầu khí quyển giống Trái Đất trên Sao Hoả mà đã được tạo nên trước đó.[21] Phương pháp này giả sử rằng trên Sao Hoả những khoáng sản đó ít nhất phải phổ biến như trên Trái Đất, để duy trì việc sản xuất những khí nhà kính tối ưu (CF3SCF3, CF3OCF2OCF3, CF3SCF2SCF3, CF3OCF2NFCF3, C12F27N) cho việc giữ ấm Sao Hoả.

Sử dụng những tấm gương bay trên quỹ đạo quanh Sao Hỏa

[sửa | sửa mã nguồn]

Những tấm gương được làm từ phim PET tráng nhôm có thể được đưa vào quỹ đạo quanh Sao Hoả để tăng lượng ánh sáng mà nó nhận được.[1] Những tấm gương này sẽ hướng ánh sáng xuống đất và trực tiếp tăng nhiệt độ bề mặt Sao Hoả. Chúng có thể trở thành những vệ tinh địa tĩnh, hoạt động như những cánh buồm mặt trời để giữ mình tại một vị trí cố định so với Sao Hoả, ở gần địa cực, để làm thăng hoa những phiến băng khô CO2 và giúp tăng hiệu ứng nhà kính.

Giảm thiểu suất phản chiếu

[sửa | sửa mã nguồn]

Giảm suất phản chiếu của bề mặt Sao Hoả đi sẽ giúp hấp thụ ánh nắng tốt hơn.[22] Có thể làm điều này bằng cách rải bụi đen từ những mặt trăng của Sao Hoả, Phobos và Deimos, chính là một trong số những thiên thể tối nhất trong Hệ Mặt Trời; hoặc có thể du nhập những sinh vật tối màu có thể sống ở điều kiện khắc nghiệt như vi khuẩn, tảo và địa y. Khi đó mặt đất sẽ có thể hấp thụ nhiều ánh nắng hơn, làm ấm bầu khí quyển.

Nếu tảo hoặc một sinh vật xanh nào khác tồn tại, chúng cũng sẽ góp một lượng Ôxi nhỏ cho không khí, dù không đủ cho con người thở. Quá trình trao đổi tạo Ôxi là rất phụ thuộc vào nước. CO2 phần lớn được chuyển đổi thành hiđrat cacbon.[23] Vào ngày 26 tháng 4 năm 2012, các nhà khoa học đã thông báo rằng địa y đã sống sót và cho thấy kết quả đáng chú ý với khả năng thích nghi quá trình quang hợp trong vòng 34 ngày dưới điều kiện trên Sao Hoả tại phòng thí nghiệm Mars Simulation Laboratory (MSL) được vận hành bởi German Aerospace Center (DLR).[24][25]

Va chạm của tiểu hành tinh

[sửa | sửa mã nguồn]

Một cách khác để tăng nhiệt độ Sao Hỏa là va chạm trực tiếp một tiểu hành tinh nhỏ vào bề mặt Sao Hỏa. Điều này có thể thực hiện bằng cách sử dụng các tia laser ngoài không gian hoặc một số phương pháp khác để làm biến đổi quỹ đạo tiểu hành tinh. Năng lượng va chạm sẽ được giải phóng thành nhiệt. Lượng nhiệt này có thể làm bay hơi CO2, hoặc nếu ở nước tồn tại dạng lỏng ở giai đoạn này của quá trình cải tạo, nước sẽ bay hơi và hơi nước cũng là một loại khí nhà kính. Các tiểu hành tinh có thể được lựa chọn dựa vào thành phần của chúng, như amonia, sẽ được phân tán vào Sao Hỏa khi va chạm, bổ sung thêm khí nhà kính vào khí quyển. Các tia chớp có thể tạo nên các lớp nitrat trong đất Sao Hỏa.[16] Sự tác động của các tiểu hành tình vào các lớp nitrat này sẽ giải phóng thêm nitơ và oxy vào khí quyển.

Nhiệt động học của quá trình cải sinh

[sửa | sửa mã nguồn]

Toàn bộ năng lượng cần thiết để làm bốc hơi CO2 từ khối băng cực nam được mô hình hóa bởi Zubrin và McKay.[1] Việc tăng nhiệt độ 2 cực thêm 4 độ kelvin sẽ là cần thiết để kích thích hiệu ứng nhà kính. Nếu sử dụng các gương trên quỹ đạo, ước tính cần 120 MWe-năm would để tạo ra các gương đủ lớn để làm bay hơi băng ở các cực. Đây được coi là phương pháp hiệu quả nhất, mặc dù ít thực tiễn. Nếu sử dụng các khí nhà kính halocarbon, sẽ cần 1000 MWe-năm để làm được điều này. Mặc dù không hiệu quả khi so sánh, nó lại được công nhận là phương pháp nhiều thực tiễn nhất. Việc va chạm với một tiểu hành tinh, thường được coi là một hiệu ứng hợp lực, sẽ cần xấp xỉ 4 tiểu hành tinh chứa 10 tỷ tấn ammonia để kích hoạt hiệu ứng nhà kính, với nhiệt độ tăng lên tổng cộng 8 độ.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Zubrin, Robert; Mckay, Christopher (28 tháng 6 năm 1993). “Technological requirements for terraforming Mars”. 29th Joint Propulsion Conference and Exhibit (bằng tiếng Anh). Monterey,CA,U.S.A.: American Institute of Aeronautics and Astronautics. doi:10.2514/6.1993-2005.
  2. ^ Savage, Marshall T. (1994). The millennial project : colonizing the galaxy in eight easy steps. Boston: Little, Brown. ISBN 0-316-77165-1. OCLC 30319063.
  3. ^ Wall, Mike (ngày 8 tháng 4 năm 2013). “Most of Mars' Atmosphere Is Lost in Space”. Space.com. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2013.
  4. ^ Gravity Hurts (so Good) Lưu trữ 2012-11-24 tại Wayback Machine - NASA 2001
  5. ^ Rickard Lundin & Stanislav Barabash (2004). “Evolution of the Martian atmosphere and hydrosphere: Solar wind erosion studied by ASPERA-3 on Mars Express”. Planetary and Space Science. 52 (11): 1059–71. doi:10.1016/j.pss.2004.07.020. Truy cập 3 tháng 5 năm 2013.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  6. ^ Phillips, Tony (ngày 29 tháng 12 năm 2003). “Earth's Inconstant Magnetic Field”. Science@Nasa. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2012.
  7. ^ Dr. Tony Phillips (ngày 21 tháng 11 năm 2008). “Solar Wind Rips Up Martian Atmosphere”. NASA. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
  8. ^ Lieberman, Josh (ngày 26 tháng 9 năm 2013). “Mars Water Found: Curiosity Rover Uncovers 'Abundant, Easily Accessible' Water In Martian Soil”. iSciencetimes. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
  9. ^ Leshin, L. A. (ngày 27 tháng 9 năm 2013). “Volatile, Isotope, and Organic Analysis of Martian Fines with the Mars Curiosity Rover”. Science (journal). 341 (6153). doi:10.1126/science.1238937. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
  10. ^ Grotzinger, John (ngày 26 tháng 9 năm 2013). “Introduction To Special Issue: Analysis of Surface Materials by the Curiosity Mars Rover”. Science (journal). 341 (6153): 1475. doi:10.1126/science.1244258. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2013.
  11. ^ Neal-Jones, Nancy; Zubritsky, Elizabeth; Webster, Guy; Martialay, Mary (ngày 26 tháng 9 năm 2013). “Curiosity's SAM Instrument Finds Water and More in Surface Sample”. NASA. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2013.
  12. ^ Webster, Guy; Brown, Dwayne (ngày 26 tháng 9 năm 2013). “Science Gains From Diverse Landing Area of Curiosity”. NASA. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2013.
  13. ^ R.C. (tháng 3 năm 2007). “Radar Probes Frozen Water at Martian Pole”. Science News. 171 (13): 206. doi:10.1002/scin.2007.5591711315. JSTOR 20055502. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.(cần đăng ký mua)
  14. ^ a b Lovelock, James; Allaby, James (1984). The Greening of Mars. St. Martin's Press. ISBN 9780312350246.
  15. ^ Hecht. “Detection of Perchlorate and the Soluble Chemistry of Martian Soil at the Phoenix Lander Site”. Science Magazine. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2014.
  16. ^ a b USA. “Mars -- Making the New Earth: Living on Mars”. National Geographic. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2011.
  17. ^ Dandridge M. Cole; Donald William Cox (1964). Islands in Space: The Challenge of the Planetoids. Chilton Books. tr. 126–127.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  18. ^ Mat Conway (ngày 27 tháng 2 năm 2007). “Now We're There: Terraforming Mars”. Aboutmyplanet.com. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2011.
  19. ^ “Terraforming - Can we create a habitable planet?” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
  20. ^ “Mars Atmospheric Resources”. Johnson Space Center. ngày 28 tháng 9 năm 1998. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
  21. ^ a b c Gerstell, M. F.; Francisco, J. S.; Yung, Y. L.; Boxe, C.; Aaltonee, E. T. (2001). “Keeping Mars warm with new super greenhouse gases” (PDF). Proceedings of the National Academy of Sciences. 98 (5): 2154–2157. doi:10.1073/pnas.051511598.
  22. ^ Peter Ahrens. “The Terraformation of Worlds” (PDF). Nexial Quest. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2007.
  23. ^ “Plants Don't Convert CO2 into O2”. How Plants Work. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2015. Truy cập 28 tháng 9 năm 2015.
  24. ^ Baldwin, Emily (ngày 26 tháng 4 năm 2012). “Lichen survives harsh Mars environment”. Skymania. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2012.
  25. ^ de Vera, J.-P.; Kohler, Ulrich (ngày 26 tháng 4 năm 2012). “The adaptation potential of extremophiles to Martian surface conditions and its implication for the habitability of Mars” (PDF). European Geosciences Union. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2012.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]