Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Liên Xô”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
DHN-bot (thảo luận | đóng góp)
Scipio (thảo luận | đóng góp)
Dòng 14: Dòng 14:
:''Xem bài chính về [[Chiến tranh Nga - Ba Lan (1919-1921)]]''
:''Xem bài chính về [[Chiến tranh Nga - Ba Lan (1919-1921)]]''
Các biên giới giữa [[Ba Lan]], vốn đã được thành lập một chính phủ yếu ớt sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, và chính quyền Nga hoàng cũ, vốn rất hỗn loạn với các ảnh hưởng của các cuộc cách mạng Nga và nội chiến. Jozef Pilsudski người Ba Lan hình dung ra một liên bang mới (Miedzymorze), tạo nên một khối Đông Âu do Ba Lan lãnh đạo để hình thành một bức tường chống lại Nga và Đức, trong khi LBCHXHCN Nga tìm cách mang cách mạng về phía Tây. Khi Pilsudski tiến hành cuộc tấn công quân sự vào [[Ukraina]] năm [[1920]], ông gặp một cuộc tấn công của Hồng quân đánh sâu vào lãnh thổ Ba Lan đến tận gần Warsaw. Tuy nhiên, Pilsudski đã chặn đứng bước tiến của người Xô viết tại trận chiến Warsaw và lấy lại thế tấn công. Hoà ước Riga được ký kết vào đầu năm [[1921]] phân chia lãnh thổ Belarus và Ukraine giữa Ba Lan và Nga.
Các biên giới giữa [[Ba Lan]], vốn đã được thành lập một chính phủ yếu ớt sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, và chính quyền Nga hoàng cũ, vốn rất hỗn loạn với các ảnh hưởng của các cuộc cách mạng Nga và nội chiến. Jozef Pilsudski người Ba Lan hình dung ra một liên bang mới (Miedzymorze), tạo nên một khối Đông Âu do Ba Lan lãnh đạo để hình thành một bức tường chống lại Nga và Đức, trong khi LBCHXHCN Nga tìm cách mang cách mạng về phía Tây. Khi Pilsudski tiến hành cuộc tấn công quân sự vào [[Ukraina]] năm [[1920]], ông gặp một cuộc tấn công của Hồng quân đánh sâu vào lãnh thổ Ba Lan đến tận gần Warsaw. Tuy nhiên, Pilsudski đã chặn đứng bước tiến của người Xô viết tại trận chiến Warsaw và lấy lại thế tấn công. Hoà ước Riga được ký kết vào đầu năm [[1921]] phân chia lãnh thổ Belarus và Ukraine giữa Ba Lan và Nga.
[[Hình:Bolshveki killed at Vladavostak.jpg|nhỏ|300px|Những người dân bị Hồng quân giết trong thời kỳ Nội chiến 1918-1922]]


=== Sự hình thành Liên bang Xô viết ===
=== Sự hình thành Liên bang Xô viết ===

Phiên bản lúc 07:31, ngày 19 tháng 6 năm 2007

Lịch sử Liên bang Xô viết bắt đầu từ cuộc Cách mạng Nga năm 1917 trong một nỗ lực thực thi chủ nghĩa cộng sản ở mức độ rộng lớn hơn của Vladimir Ilyich Lenin, cho tới sự sụp đổ của Liên bang Xô viết năm 1991 khi chính phủ trung ương của nó bị giải tán.

Giai đoạn 1917-1927

Cuộc cách mạng Nga

Xem bài chính về Cách mạng Nga

Tháng Ba năm 1917, những người tư sản Nga tiến hành cách mạng, tiếp quản chính quyền từ tay Sa hoàng. Những rối loạn chính trị, xã hội không được giải quyết triệt để trong cuộc cách mạng này đã dẫn tới cuộc cách mạng tháng Mười một của những người Bolshevik. Kết quả là nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên của thế giới được thành lập. Một trong những việc làm đầu tiên của Chính phủ cộng sản là rút lui khỏi Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tiếp theo Thoả ước hoà bình Brest-Litovsk, Liên bang Xô viết chuyển giao phần lớn UkrainaBelarus cho Đức.

Nội chiến Nga

Xem bài chính về Nội chiến Nga

Sau khi chính quyền Xô Viết được thành lập, những người ủng hộ chính quyền Nga Hoàng vùng dậy bạo động, dẫn tới nhiều năm nội chiến toàn diện, và chỉ kết thúc vào năm 1922.

Chiến tranh Nga - Ba Lan (1919-1921)

Xem bài chính về Chiến tranh Nga - Ba Lan (1919-1921)

Các biên giới giữa Ba Lan, vốn đã được thành lập một chính phủ yếu ớt sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, và chính quyền Nga hoàng cũ, vốn rất hỗn loạn với các ảnh hưởng của các cuộc cách mạng Nga và nội chiến. Jozef Pilsudski người Ba Lan hình dung ra một liên bang mới (Miedzymorze), tạo nên một khối Đông Âu do Ba Lan lãnh đạo để hình thành một bức tường chống lại Nga và Đức, trong khi LBCHXHCN Nga tìm cách mang cách mạng về phía Tây. Khi Pilsudski tiến hành cuộc tấn công quân sự vào Ukraina năm 1920, ông gặp một cuộc tấn công của Hồng quân đánh sâu vào lãnh thổ Ba Lan đến tận gần Warsaw. Tuy nhiên, Pilsudski đã chặn đứng bước tiến của người Xô viết tại trận chiến Warsaw và lấy lại thế tấn công. Hoà ước Riga được ký kết vào đầu năm 1921 phân chia lãnh thổ Belarus và Ukraine giữa Ba Lan và Nga.

Những người dân bị Hồng quân giết trong thời kỳ Nội chiến 1918-1922

Sự hình thành Liên bang Xô viết

Ngày 29 tháng 12 năm 1922, LBCHXHCN Nga, Liên bang các nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa vùng Cáp-ca và Các nước Cộng hoà Xô viết xã hội chủ nghĩa thuộc Belarus và Ukraine ký một Hiệp ước thành lập Liên bang Cộng hoà Xô viết tạo nên Liên bang Xô viết bằng một hội nghị các đại diện và sau đó được khẳng định vào ngày 30 tháng Mười Hai 1922 bởi Đại hội các Xô viết của LX.

Chính sách kinh tế mới

Xem bài chính về Chính sách kinh tế mới (Nga)

Đại hội X của Đảng Cộng sản Nga vào tháng Ba năm 1921 quyết định thực hiện một chương trình cải cách kinh tế sâu rộng, gọi là Chính sách kinh tế mới. Quyền sở hữu tư nhân phần nào được phục hồi. Nông dân được phép thuê mướn lao động và nộp sản phẩm thu hoạch xem như thuế. Các hạn chế thương mại được nới lỏng. Quan hệ kinh tế với nước ngoài được tăng cường.

Cuộc cải cách này đã phát huy một số tác dụng nhất định. Song, đến năm 1929, nó đã bị bãi bỏ. Kế hoạch 5-năm lần thứ nhất.

Giai đoạn 1927-1953

Kế hoạch hóa

Tại đại hội thứ mười bốn Đảng cộng sản Liên Xô tháng Mười Hai 1927, Stalin tấn công cánh tả bằng cách trục xuất Trotsky và những người ủng hộ ông ta khỏi đảng và sau đó chuyển sáng chống lại những người cánh hữu bằng cách từ bỏ Chính sách kinh tế mới của Lenin vốn được bênh vực bởi Nikolai Bukharin và Alexei Ivanovich Rykov. Cảnh báo các đại biểu về một sự bao vây sắp xảy đến của chủ nghĩa tư bản, ông nhấn mạnh rằng sự tồn tại và phát triển chỉ có thể đến bằng cách theo đuổi sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp nặng. Stalin lưu ý rằng Liên Xô đang “chậm hơn các nước phát triển từ năm mươi đến một trăm năm” (Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Anh Quốc vv.), và vì vậy phải thu hẹp “khoảng cách này” trong mười năm. Có lẽ trong một sự sợ hãi kỳ cục và linh tính của Chiến tranh thế giới thứ hai, Stalin tuyên bố, “Chúng ta phải thực hiện điều đó hoặc chúng ta sẽ bị tiêu diệt.”

Để giám sát được sự chuyển đổi triệt để của Liên bang sô viết, đảng, dưới sự lãnh đạo của Stalin, đã thành lập Gosplan (Uỷ ban kế hoạch quốc gia), một cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm chỉ huy nền kinh tế xã hội về hướng tăng cường công nghiệp hoá. Tháng Tư 1929, Gosplan đưa ra hai điều cơ bản rằng quá trình đầu tiên sẽ công nghiệp hoá quốc gia trồng trọt. Bản báo cáo 1,700 trang này trở thành cơ bản của Kế hoạch năm năm cho việc Xây dựng nền kinh tế quốc gia, hay Piatiletka, mục tiêu tăng gấp hai dự trữ vốn Sô viết từ 1928 đến 1931.

Thay đổi từ NEP của Lenin, kế hoạch năm năm lần thứ nhất thành lập kế hoạch trung ương như là cơ sở căn bản để đưa ra quyết định và nhấn mạnh vào công nghiệp hoá nhanh chóng công nghiệp nặng (xem Kinh tế của Liên bang sô viết). Nó bắt đầu quá trình chuyển đổi nhanh chóng các quốc gia trồng trọt gồm những nông dân thành những siêu cường công nghiệp. Trên thực tế, các kế hoạch ban đầu để đưa ra những cơ sở cho sự tăng trưởng kinh tế vượt bậc trong tương lai.

Hệ thống kinh tế mới do kế hoạch năm năm lần thứ nhất đòi hỏi có được một serie những sắp đặt kế hoạch rất phức tạp (xem Khái quát quá trình kế hoạch hoá kinh tế Sô Viết). Kế hoạch năm năm lần thứ nhất nhắm tới việc huy động các nguồn tài nguyên thiên nhiên để xây dựng cơ sở công nghiệp nặng quốc gia bằng cách tăng khai thác than, thép, và những nguồn tài nguyên quan trọng khác. Với một giá nhân lực rất cao, quá trình này đã thành công lớn, tạo lập một nền tảng tư bản cho sự phát triển công nghiệp hoá nhanh chóng hơn bất kỳ một quốc gia nào trong lịch sử.

Tiến hành công nghiệp hoá

Sự huy động các nguồn lực bởi uỷ ban kế hoạch nhà nước tăng cường cơ sở công nghiệp quốc gia. Từ 1928 đến 1932, sản xuất gang, cần thiết cho sự phát triển của hạ tầng công nghiệp chưa hiện hữu tăng từ 3.3 triệu đến 10 triệu tấn một năm. Than, sản phẩm trung gian cung cấp năng lượng cho các nền kinh tế hiện đại và cuộc công nghiệp hoá của Stalin tăng mạnh từ 35.4 triệu đến 75 triệu tấn, và sản xuất quặng thép từ 5.7 triệu đến 19 triệu tấn. Một số tổ hợp công nghiệp như MagnitogorskKuznetsk, các nhà máy ô tô MoscowGorky, các nhà máy máy công nghiệp nặng UralsKramatorsk, các nhà máy máy kéo Kharkov, nhà máy sản xuất máy kéo StalingradCheliabinsk đã được hoặc đang trong quá trình xây dựng.

Dựa phần lớn ở những con số trên kế hoạch sản xuất công nghiệp năm năm đã được hoàn thành tới 93.7% chỉ trong bốn năm, trong khi những phần dành cho công nghiệp nặng được hoàn thành tới 108%. Tháng Mười Hai 1932, Stalin tuyên bố kế hoạch là một sự thành công trước Uỷ ban trung ương, bởi vì sự tăng trưởng sản xuất than và thép có thể đáp ứng cho sự phát triển tương lai.

Trong khi không nghi ngờ đã có được một bước nhảy vọt trong năng lực công nghiệp, kế hoạch năm năm đã quá khắc nghiệt đối với công nhân công nghiệp; các định mức rất cao khó được hoàn thành, đòi hỏi thợ mỏ phải làm việc 16 đến 18 giờ một ngày. Việc không hoàn thành định mức có thể dẫn đến trách nhiệm phản bội tổ quốc. Các điều kiện làm việc rất kém, thậm chí nguy hiểm. Một số con số, 127,000 công nhân đã chết trong bốn năm (từ 1928 đến 1932). Vì sự phân phối các nguồn tài nguyên cho công nghiệp cùng sự giảm sút năng suất của sự tập thể hoá, một nạn đói diễn ra. Việc sử dụng lao động cưỡng bức cũng không bị bỏ qua. Trong việc xây dựng các tổ hợp công nghiệp, những người trong các trại lao động cũng được sử dụng như những nguồn tài nguyên có thể lãng phí.

Từ 1921 đến 1954, trong giai đoạn nhà nước chỉ huy, bắt buộc công nghiệp hoá, 3.7 triệu người bị cho là đã bị kết án vì cái gọi là các tội phản cách mạng, gồm 0.6 triệu bị tử hình, 2.4 triệu bị đưa đến các trại lao động, và 0.7 triệu bị đày biệt xứ. Một số ước tính khác cho các con số này cao hơn rất nhiều. Giống như với nạn đói, chứng cớ ủng hộ con số lớn đang còn bị các nhà sử học tranh cãi mặc dù đây là một quan điểm của số ít.

Tập thể hoá

Tháng Mười Hai 1928, Uỷ ban trung ương quyết định thực hiện tập thể hoá bắt buộc. Sự kiện này đánh dấu chấu hết cho NEP, vốn từng cho phép nông dân bán thặng dư của họ ra thị trường tự do. Việc trưng thu lương thực xuất hiện và nông dân bị bắt buộc phải dừng làm việc trên cánh đồng nhỏ và đất đai riêng, để làm việc trong các nông trại tập thể, và bán sản phẩm của họ cho nhà nước với một giá thấp do nhà nước đặt ra.

Đã được kế hoạch năm năm lần thứ nhất đưa ra các mục tiêu, nhà nước tìm cách tăng cường kiểm soát chính trị nông nghiệp, hy vọng cung cấp đủ cho số lượng vùng thành thị gia tăng nhanh chóng và để xuất khẩu lúa gạo, một nguồn ngoại tệ cần thiết để nhập khẩu công nghệ cần thiết cho hiện đại hóa công nghiệp.

Tới năm 1936 khoảng 90% nông nghiệp Sô Viết đã được tập thể hoá. Trong nhiều trường hợp nông dân cay đắng chống đối lại quá trình này và thường giết chết những con vật của họ hơn là đưa chúng vào các nông trại tập thể. Kulak, những người nông dân giàu có, bị cưỡng bức dời đến Siberia (một tỷ lệ lớn kulak phải làm việc trong các trại lao động). Tuy nhiên, vì bất kỳ ai phản đối tập thể hoá đều bị coi là kulak. Chính sách thanh toán kulak như một tầng lớp xã hội, được Stalin đưa ra vào cuối 1929, nghĩa là sự hành hình và trục xuất tới các trại lao động.

Mặc dù được mong đợi, tập thể hoá dẫn tới một sự sụt giảm thảm hại trong sản xuất nông nghiệp, chỉ đạt lại được mức của NEP tới tận 1940. Sự biến động cùng với sự tập thể hoá rất kinh khủng ở Ukraine và đặc biệt nghiêm trọng ở những vùng lân cận Volga của Ukraine, một sự thực dẫn tới việc nhiều học giả Ukraine tranh cãi rằng đã có một chính sách có cân nhắc về việc bỏ đói người dân Ukraine. Số người chết vì nạn đói được ước tính khoảng từ ba đến mười triệu người chỉ riêng ở Ukrane, không tính các vùng lân cận. Tục ăn thịt người không phải là hiếm gặp. Các nguồn tại Liên Xô phủ nhận sự hiện diện của nạn đói hoặc ước tính một con số người chết thấp hơn rất nhiều. Con số hiện nay về thương vong được tranh cãi cho mãi đến tận bây giờ. Năm 1975, Abramov và Kocharli ước tính rằng 265,800 gia đình kulak đã bị tống đến Gulag năm 1930. Năm 1979, Roy Medvedev đã sử dụng ước tính của Abramov và Kocharli để tính rằng 2.5 triệu nông dân đã bị trục xuất từ 1930 đến 1931 nhưng ông vẫn cho rằng mình còn ước lượng dưới mức con số thực.

Những thay đổi trong xã hội Xô viết

Được xác nhận bởi Hiến pháp USSR năm 1924, biểu tượng của Liên bang sô viết là một cái búa và một cái liềm tượng trưng sự liên minh của tầng lớp lao động và tầng lớp nông dân. Những bông lúa mì quận vào nhau trong một dải đỏ với dòng chữ bằng các ngôn ngữ của tất cả 15 nước liên bang cộng hoà: “Công nhân tất cả các nước liên hiệp lại!” Bông lúa tượng trưng cho nông nghiệp Xô Viết. Một ngôi sao năm cáh, biểu tượng sự thống nhất của Liên bang sô viết với các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên năm châu, được vẽ ở phần trên của biểu tượng. Các chính sách công nghiệp của Stalin đã cải thiện rất nhiều điều kiện sống của đa phần dân số, mặc dù sự tranh cãi về mức độ thiệt mạng dẫn tới việc các chính sách của Stalin làm nhơ thành tích Xô Viết.

Ví dụ, công ăn việc làm đã tăng mạnh; được cho là 3.9 triệu một năm vào năm 1923, nhưng con số hiện nay còn đáng kinh ngạc hơn 6.4 triệu. Từ 1926 đến 1930, danh số thành thị tăng 30 triệu người. Thất nghiệp từng là một vấn đề dưới thời Sa Hoàng và thậm chí cả ở thời kỳ NEP, nhưng nó không còn là vấn đề nữa sau khi thực hiện chương trình công nghiệp hoá của Stalin. Việc tập trung các nguồn tài nguyên cho công nghiệp hoá các xã hội nông nghiệp đã tạo ra nhu cầu lao động, có nghĩa là thất nghiệp gần như bằng không. Nhiều dự án tham vọng được khởi động, và chúng cung cấp vật liệu thô không chỉ cho vũ khí quân sự mà cả cho hàng hoá tiêu dùng.

Nhà máy ô tô Moscow và Gorky sản xuất ô tô mà dân chúng có thể sử dụng mặc dù không cần thiết phải đủ khả năng, và việc mở rộng các cơ sở công nghiệp nặng và sản xuất thép làm cho việc sản xuất một số lượng lớn ô tô thành hiện thực. Ví dụ, sản xuất xe con và xe tải, đã đạt tới con số 200,000 vào năm 1931.

Bởi vì các công nhân công nghiệp cần được đào tạo, số lượng trường học tăng lên. Năm 1927, 7.9 triệu sinh viên đến 118,558 trường học. Con số này lên tới 9.7 triệu sinh viên và 166,275 trường vào năm 1933. Hơn nữa, 900 cơ sở chuyên nghiên cứu và 566 viện cũng được xây dựng và hoạt động vào năm 1933.

Nhân dân Sô viết cũng được hưởng lợi từ việc tự do hoá xã hội ở một mức độ. Phụ nữ được bình đẳng, giáo dục tương đương, và phụ nữ cũng có quyền tương đương trong lao động, thúc đẩy cải thiện đời sống cho phụ nữ và các gia đình. Những phát triển của Stalin cũng góp phần vào việc tăng cường chăm sóc sức khoẻ, ảnh hưởng lớn tới sự tăng tuổi thọ cho công dân Sô viết và chất lượng cuộc sống. Các chính sách của Stalin cấp cho toàn bộ dân Sô viết tiếp cận chăm sóc sức khoẻ và giáo dục, hình thành một cách hữu hiệu thế hệ đầu tiên không bị sốt rét, dịch tả. Tỷ lệ các bệnh trên đã giảm xuống con số thấp kỷ lục, tăng tuổi thọ lên hàng thập kỷ.

Phụ nữ Sô Viết dưới chế độ Stalin cũng là thế hệ phụ nữ đầu tiên được sinh sản trong những bệnh viện an toàn, với khả năng tiếp cận chăm sóc trước sinh. Giáo dục cũng là một ví dụ về tăng chất lượng cuộc sống với sự phát triển kinh tế. Thế hệ sinh ra dưới thời cai trị của Stalin là thế hệ có trình độ đại học cao đầu tiên. Các kỹ sư được cử ra nước ngoài học công nghệ công ngiệp, và hàng trăm kỹ sư nước ngoài được thuê đến Nga. Các đường vận tải được cải thiện với việc nhiều tuyến đường sắt được xây dựng. Công nhân làm vượt khoán, Stakhanovites, nhận được khuyến khích cho công việc của họ. Vì thế họ có thể đủ khả năng mua hàng hoá được sản xuất hàng loạt bởi nền kinh tế đang phát triển nhanh của Sô viết.

Cuộc thanh trừng vĩ đại

Xem bài chính Cuộc thanh trừng vĩ đại

Trong thập niên 1930, Stalin đã tiền hành hàng loạt cuộc thanh trừng nhằm vào những người bất đồng với mình trong Đảng Cộng sản Liên Xô và trong quân đội. Thời kỳ từ 1936 đến 1937 thường được gọi là Nỗi khiếp sợ vĩ đại, với hàng nghìn người (thậm chí chỉ đơn giản bị nghi ngờ chống đối chế độ Stalin) bị giết hoặc bị bỏ tù. Hàng triệu người đã bị chuyển tới các trại lao động Gulag.

Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại

Chiến tranh và sự phát triển của chủ nghĩa Stalin

Sự công nghiệp hoá công nghiệp nặng góp phần vào chiến thắng của Liên bang sô viết trong thời gian chiến tranh với Phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai (được biết đến trên toàn USSR với cái tên Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại). Hồng Quân một mình đập tân sự mở rộng của Phát xít về hướng đông (mặc dù có sự trợ giúp lớn vũ khí từ Hoa Kỳ và Anh), với việc khuynh hướng chiến tranh trên Mặt trận phía Đông sau chận chiến Stalingrad. Người Đức không bao giờ còn phục hồi được nữa sau nỗ lực đảo ngược tình thế tại chận chiến Kursk bị đánh tan; sau trận chiến này thế chủ động hoàn toàn thuộc về Hồng Quân.

Mặc dù Liên bang sô viết có được sự trợ giúp vũ khí lớn lao từ Hoa Kỳ, nhưng sản xuất phương tiện chiến tranh riêng của họ cũng lớn hơn Phát xít Đức nhờ vào sự phát triển nhanh chóng sản xuất công nghiệp của Sô Viết trong những năm giữa hai cuộc chiến. Kế hoạch năm năm lần thứ hai tăng sản xuất thép lên 18 triệu tấn và than lên 128 triệu tấn. Trước khi bị gián đoạn, Kế hoạch năm năm lần thứ ba đã sản xuất ra không ít hơn 19 triệu tấn thép và 150 triệu tấn than. Trong chiến tranh, đồng minh có thể vượt xa Phát xít Đức trong sản xuất nguyên liệu chiến tranh, ở một số mặt còn gấp mười lần. Ví dụ, sản xuất xe tăng tương đương 40,000 chiếc một năm đối với đồng minh trong khi đó Phát xít Đức chỉ đạt 4,000.

Sản lượng công nghiệp của Liên bang sô viết cho phép họ chặn đứng bước tiến ban đầu của Phát xít Đức, và tước bỏ lợi thế của chúng. Theo Robert L. Hutchings, “Mọi người khó có thể nghi ngờ rằng nếu sự xây dựng công nghiệp diễn ra chậm hơn, thì cuộc tấn công đã có thể thành công và lịch sử thế giới có lẽ đã tiến triển khác đi.” Tuy nhiên, đối với những người lao động trong ngành công nghiệp, cuộc sống rất khó khăn. Công nhân được khuyến khích hoàn thành và vượt mục tiêu thông qua các khẩu hiệu, như phong trào năng suất cao. Từ giữa 1933 đến 1945, một số người tranh cãi rằng bảy triệu thường dân đã chết vì đòi hỏi lao động. Từ 1930 đến 1940, sáu triệu người bị đưa vào lao động thông qua hệ thống cưỡng bức lao động.

Một số nhà sử học, tuy nhiên, coi tình trạng không sẵn sàng chiến đấu của Liên bang sô viết để tự bảo vệ mình là một sai lầm trong kế hoạch kinh tế của Stalin. Ví dụ David Shearer cho rằng đã có một “nền kinh tế mệnh lệnh hành chính” nhưng nó không phải là “một nền kinh tế kế hoạch”. Ông cho rằng Liên bang sô viết là một quốc gia hỗn loạn về chính sách của Bộ chính trị vì Cuộc thanh trừng vĩ đại, và hoàn toàn không được chuẩn bị cho sự xâm lược của Phát xít Đức. Khi Liên bang sô viết bị tấn công năm 1941, Stalin vì thế đã rất ngạc nhiên. Hơn nữa, nhà kinh tế Hà Lan Hunter trong bài viết Kế hoạch năm năm lần thứ nhất quá tham vọng cho rằng một lực lượng “những đường lối có thể được thay đổi, gây ra tình huống hiện hữu vào cuối thập kỷ 1920... đã có thể cũng tốt như những thứ đã được hoàn thành vào năm 1936 với ít hỗn loạn, rác rưởi, phát hoại và hy sinh hơn.”

Không khi không có phương tiện nào để là một nền kinh tế “mệnh lệnh” hay một nền kinh tế hiệu quả, Kế hoạch năm năm rõ ràng đã đặt kế hoạch một thế tấn công, nhưng bởi vì Liên bang sô viết đã bị tấn công, tình hình đòi hỏi một sự trả lời phòng thủ. Kết quả, như Shearer đã chỉ ra, nền kinh tế mệnh lệnh phải được nới lỏng và vì vậy sự động viên nguồn lực cần thiết đã có thể hoàn thành. Sapir ủng hộ quan điểm này, cho rằng các chính sách của Stalin đã phát triển và động viên nền kinh tế (vốn không hiệu quả), với sức ép giữa việc đưa ra quyết định giữa trung ương và địa phương. Các lực lượng thị trường trở nên quan trọng hơn những cưỡng ép của hành chính trun ương. Tuy nhiên, quan điểm này bị Stephen Lee bác bỏ, ông cho rằng “cuộc công nghiệp hoá công nghiệp nặng (của Liên bang sô viết) là cách duy nhất để tồn tại”.

Những phát triển trong thời gian chiến tranh

Cuộc tấn công của Phát xít đúng lúc quân đội Sô Viết không chuẩn bị. Một điều được nhiều người tin tưởng rằng đó là bởi vì một số lượng lớn sỹ quan cao cấp (ước tính 40,000) người đã bị bỏ tù trong “Cuộc thanh trừng vĩ đại” từ 1936-1939. Để giữa ảnh hưởng của Sô Viết đối với Đông Âu cũng như mở rộng quan hệ kinh tế với Đức, Stalin đã dàn xếp Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, một hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau với Đức Phát xít vào 23 tháng Tám, 1939 và Thoả thuận thương mại Sô-Đức. Một phụ lục của hiệp ước trao Đông Ba Lan, Latvia, Estonia và Phần Lan cho USSR và Tây Ba Lan và Lithuania cho Đức Phát xít. Đức Phát xít xâm chiếm Ba Lan vào 1 tháng Chín; Liên Xô hùa theo ngày 17 tháng Chín, đẩy sự tự vệ của Ba Lan vào hỗn loạn bằng cách mở mặt trận thứ hai. Với việc Ba Lan bị phân chia giữa hai cường quốc, Liên bang sô viết đưa ra yêu cầu lãnh thổ của mình trước Phần Lan đối với một phần nhỏ của Karelian Isthmus, một căn cứ hải quân tại bán đảo Hanko (Hango) và một số đảo trong Vịnh Phần Lan. Phần Lan từ chối đòi hỏi này vào 30 tháng Mười Một, Liên bang sô viết tấn công Phần Lan và vì thế gây ra Cuộc chiến mùa đông. Dù đông hơn quân Phần Lan với tỷ lệ 50:1, chiến tranh thực tế rất khó khăn cho Hồng Quân, mặc dù cuối cùng họ cũng chiếm được những vùng biên giới quan trọng chiến lược, đặc biệt là các vùng gần bắc Leningrad. Chiến tranh gây ra sự phản đối quốc tế và vào 14 tháng Mười Hai Liên bang sô viết bị trục xuất khỏi Hiệp hội các quốc gia.

22 tháng Sáu 1941, Hitler bất ngờ xé bỏ hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau và tấn công Liên bang sô viết (xem Chiến dịch Barbarossa).

Sử dụng các quan hệ của mình với đảng Phát xít Đức, điệp viên của NKVD Richard Sorge đã khám phá được chính xác thời gian kế hoạch tấn công Liên bang sô viết của Đức. Thông tin này được báo với Stalin, nhưng bị bỏ qua, mặc dù lời cảnh báo không chỉ đến từ Sorge, mà cả từ Winston Churchill và các nguồn khác.

Người ta cho rằng ban đầu Stalin từ chối tin rằng Phát xít Đức đã xé bỏ hiệp ước. Tuy nhiên những chứng cứ mới cho thấy Stalin đã gặp nhiều thành viên cao cấp chính phủ Sô viết và nhiều tướng lĩnh, gồm cả Vyacheslav Molotov (Uỷ viên uỷ ban nhân dân về đối ngoại), Semyon Timoshenko (Uỷ viên uỷ ban nhân dân về quốc phòng), Georgy Zhukov (Lãnh đạo Hồng Quân), Nikolai Kuznetsov (Chỉ huy cả vùng Bắc Caucasus và quân đội Baltic), và Boris Shaposhnikov (Phó Uỷ viên nhân dân về quốc phòng). Tất cả trong thời gian đầu tiên của cuộc tấn công, Stalin đã gặp hơn 15 thành viên chính phủ Sô viết và bộ máy quân sự.

Các đội quân Phát xít Đức tiến tới vùng ngoại ô Moscow tháng Mười Hai 1941, nhưng bị làm chệch hướng về sườn phía Nam. Tại Trận chiến Stalingrad năm 1942-43, sau khi mất khoảng 1 triệu quân trong trận chiến đẫm máu nhất trong lịch sử, Hồng Quân đã có thể lấy lại thế chủ động chiến tranh. Vì Nhật Bản không muốn mở một mặt trận thứ hai tại vùng Mãn Châu, những người Sô viết đã có thể điều động hàng chục sư đoàn quay trở lại từ phía Đông Nga. Các đơn vị đó là công cụ để làm thay đổi trào lưu cuộc chiến, bởi vì đa số sỹ quan của họ đã thoát khỏi các cuộc thanh trừng của Stalin. Các lực lượng Sô viết nhanh chóng chiếm lại các vùng đất bị mất trước kia và đẩy kẻ thù đang bị giãn căng quá mức của họ quay trở lại nước Đức Phát xít.

Đánh dấu thắng lợi của Liên bang sô viết là hình ảnh một binh sỹ giương lá cờ Sô viết bên trên toà nhà quốc hội Đức (German Reichstag) trong thủ đô Phát xít, Berlin. Từ cuối năm 1944 đến 1949 nhiều vùng đông nước Đức nằm dưới sự chiếm đóng của Liên xô và ngày 2 tháng Năm 1945, thành phố thủ đô Berlin bị chiếm, trong khi hơn mười lăm triệu người Đức bị dời từ phía Đông tới vùng Trung Đức (sau này gọi là Cộng hoà dân chủ Đức GDR) và tây Đức (sau này được gọi là Cộng hoà liên bang Đức FRG). Người Nga, Ukraine, Ba Lan, Czech vv. sau đó bị chuyển đến vùng đất của Đức.

Người Sô viết đã phải chịu gánh nặng chủ yếu của Chiến tranh thế giới thứ hai bởi vì phương Tây không thể mở mặt trận thứ hai tại Châu Âu cho tới tận khi tấn công Italy vào D-Day. Gần 28 triệu người Sô viết, trong đó 17 triệu thường dân đã bị giết hại trong “Chiến dịch Barbarosa,” cuộc tấn công Liên xô của nước Đức Phát xít. Dân thường bị bao vây và bị đốt hoặc bắn chết trong nhiều thành phố bị Đức chiếm đóng. Nhiều người cho rằng bởi vì người Slav bị coi là “bán khai”, về mặt đạo lý việc này nhằm mục đích giết hại hàng loạt. Tuy nhiên, sự rút lui của quân đội Sô viết cũng đã được lệnh thực hiện chính sách ‘tiêu thổ kháng chiến’ nhờ thế đội quân rút lui của Sô viết được lệnh phá huỷ hạ tầng dân sự và các nguồn cung cấp lương thực để các đội quân Phát xít Đức không thể sử dụng.

Chiến tranh thế giới thứ hai dẫn tới kết cục là sự phá huỷ kinh khủng hạ tầng và dân số trên khắp Âu Á, từ Atlantic đến biển Thái Bình Dương, với hầu như không một quốc gia nào không bị tổn hại. Liên bang sô viết bị tổn hại rất nặng nề bởi sự phá huỷ hàng loạt các cơ sở công nghiệp họ đã xây dựng trong những năm thập kỷ 1930. Cường quốc công nghiệp lớn duy nhất trên thế giới không bị sứt mẻ và thậm chí còn lớn mạnh hơn nhờ vào một triển vọng kinh tế là Hoa Kỳ.

Như đã đề cập, người Sô viết chịu thương vong nặng nề nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Những thiệt hại đó có thể giải thích cách xử sự của nước Nga sau cuộc chiến. Liên bang sô viết tiếp tục chiếm đóng và cai trị Đông Âu như “vùng đệm” để bảo vệ nước Nga khỏi cuộc tấn công khác từ phương Tây. Nga đã bị tấn công ba lần trong 150 năm trước cuộc Chiến tranh lạnh, trong thời chiến tranh Napoleon, Chiến tranh thế giới thứ nhất, thứ hai, chịu hàng chục triệu tổn thất nhân mạng.

Người Sô viết quyết tâm trừng phạt những kẻ mà họ cho là hợp tác với Đức trong chiến tranh. Hàng triệu người Ba Lan, Latvia, Georgia, Ukraine và các sắc tộc thiểu số khác bị trục xuất tới các Gulag ở Siberi. (Trước đó, sau việc sáp nhập Ba Lan năm 1939, hàng ngàn sỹ quan Ba Lan gồm cả quân dự bị, đã bị hành quyết vào mùa xuân năm 1940, trong cái sau này được biết đến là Cuộc thảm sát Katyn.)

Stalin cũng tống tất cả các binh lính Nga từng bị Đức bắt giữ tới các trại cách ly tại Siberia. Việc này được tiến hành bởi vì nhiều tù binh chiến tranh Sô viết đã từng được tuyển lựa để chiến đấu bên cạnh người Đức trong quân đội Vlasov, và để giảm thiểu bất kỳ một tư tưởng chống cách mạng nào mà họ có thể đã có trong thời gian bị giam giữ.

Chiến tranh lạnh

Quyền bá chủ của Sô viết ở Đông Âu

Với hậu qủa của Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên bang xô viết trải rộng ảnh hưởng chính trị và quân sự của mình trên toàn Đông Âu, trong một động thái mà một số người coi là sự tiếp tục của chính sách xưa cũ của Đế chế Nga. Một số vùng đất nước Nga xô viết đã từng mất theo Hiệp ước Brest-Litovsk (1918) đã bị Liên bang xô viết sáp nhập sau Chiến tranh thế giới II: các nước vùng Baltic và những phần phía đông trong thời gian giữa hai cuộc chiến của Ba Lan. SFSR của Nga cũng chiếm Transcarpathia (như Zakarpattia Oblast) từ Slovakia, và Ukrainian vùng đông dân cư Bắc Bukovina (như Chernivtsi Oblast) từ Romania. Cuối cùng, vào cuối thập kỷ 1940, tiền thân Các đảng cộng sản xô viết thắng cử tại năm quốc gia Trung và Đông Âu (Ba Lan, Czechoslovakia, Hungary, Romania và Bulgaria) và vì vậy đã trở thành các nước độc tài kiểu Stalin. Các cuộc bầu cử này thường được coi là gian lận, và các quốc gia phương Tây không công nhận các cuộc bầu cử là hợp pháp. Trong thời gian Chiến tranh lạnh diễn ra, các nước Đông Âu trở thành các nước vệ tinh của Liên xô - họ là các nước độc lập, nhưng chính phủ của họ thường giữ chính sách của mình theo mong muốn của Liên bang xô viết.

Chiều hướng của các mối quan hệ Xô-Mỹ

Mối quan hệ đồng minh trong thời chiến giữa Hoa Kỳ và Liên bang sô viết chỉ là chút sai lầm của thói quen thông thường của các mối quan hệ Xô-Mỹ. Đối thủ chiến lược giữa một liên hiệp các quốc gia vĩ đại, trải dài đã từng có từ những năm 1890 khi sau một thế kỷ thân thiện, người Mỹ và người Nga trở thành các đối thủ trên vùng Mãn Châu đang phát triển. Các Sa Hoàng Nga không thể cạnh tranh về mặt công nghiệp tìm cách đóng kín và chiếm các phần thuộc địa ở Đông Á, trong khi người Mỹ đòi mở cửa cạnh tranh cho các thị trường.

Năm 1917 sự đối đầu chuyển sang về ý thức hệ. Người Mỹ không bao giờ quên rằng chính quyền Sô viết đã đàm phán riêng rẽ hoà bình với Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1917, bỏ mặc Đồng minh phương Tây một mình chiến đấu với các quốc gia Trung Âu. Kết thúc bằng sự mất tin cậy của người Nga khi quân đội Mỹ đổ bộ vào nước Nga sô viết năm 1918, dù trực tiếp hay gián tiếp ủng hộ lực lượng Bạch vệ (quân trắng) chống Bolshevik trong cuộc nội chiến.

Hơn nữa, Sô viết không bao giờ quên những đòi hỏi của họ về việc Hoa Kỳ và Anh mở một mặt trận thứ hai trên lục địa Châu Âu; nhưng sự tấn công của Đồng minh chỉ diễn ra mãi tận cuối tháng Sáu 1944, hai năm sau khi người Sô viết yêu cầu. Cùng lúc đó, người Nga phải chịu thương vong khủng khiếp, tới hai mươi triệu người chết và họ bắt buộc phải chống lại sức mạnh chính của quân Đức. Đồng minh cho rằng một mặt trận thứ hai đã được mở vào năm 1943 ở Italy và không chuẩn bị trước cho một cuộc tấn công ngay tức thì vào nước Pháp bị Phát xít chiếm đóng.


Sự tan vỡ của hoà bình sau chiến tranh

Khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu ngày 8 tháng Năm, 1945, quân đội Sô viết và phương Tây (Hoa Kỳ, Anh, và Pháp) chủ yếu đối mặt với nhau dọc theo giới tuyến ở Trung Âu chạy dài từ Lubeck đến Triest. Bên cạnh một chút thêm thắt, việc này sẽ là “bức màn sắt” của Chiến tranh lạnh. Phía sau, Yalta biểu hiện sự đồng thuận của hai phía về việc họ sẽ dừng ở đó và không bên nào sẽ dùng sức mạnh để đẩy lùi bên kia. Sự ngầm hiểu này cũng được áp dụng ở Châu Á, như minh chứng bởi sự chiếm đóng của Mỹ tại Nhật Bản và sự phân chia Triều Tiên. Vì thế, về mặt chính trị, Yalta là một thoả thuận về tình trạng nguyên trạng sau chiến tranh theo đó Liên bang sô viết thống trị khoảng một phần ba còn Hoa Kỳ chiếm hai phần ba.

Người Sô viết đã có thể sử dụng mạng lưới tình báo được tổ chức tốt tại Hoa Kỳ để tìm kiếm lợi thế cao nhất trong các cuộc gặp gỡ với các đại biểu Anh và Hoa Kỳ. Nhiều cố vấn của FDR và các thành viên chính phủ thường thông báo các hoạt động của họ cho lãnh đạo NKVD.

Có những đối nghịch căn bản giữa cách nhìn của Hoa Kỳ và Liên bang sô viết, giữa chủ nghĩa tư bảnchủ nghĩa xã hội. Và những đối nghịch đó đã đơn giản hoá và cải tiến thành ý thức quốc gia để đại diện thành hai phương cách sống, mỗi bên đã chứng minh mình vào năm 1945 bằng nhiều thảm hoạ. Phản ánh các model chính sách tự cấp tự túc chống lại xuất khẩu, của kế hoạch nhà nước chống lại nhà sản xuất tự do, đã ganh đua bổn phận với thế giới đang phát triển và đã phát triển trong những năm sau chiến tranh.

Tuy nhiên, thậm chí là như vậy, Chiến tranh lạnh không phải rõ ràng là không tránh được trong năm 1945. Mặc dù tình trạng thừa tiền của Hoa Kỳ để thúc đẩy tầm nhìn của một Châu Âu sau chiến tranh, Stalin coi sự tái xuất hiện của Đức và Nhật là những mối đe doạ chính của Nga, chứ không phải Mỹ. Vào thời gian đó, viễn cảnh về một mặt trận Anh-Mỹ chống lại USSR có vẻ không đáng chú ý nhiều theo quan điểm của Stalin. Các cố vấn kinh tế như Eugen Varga tăng cường quan điểm này, dự đoán một cuộc khủng hoảng sau chiến tranh về sự sản xuất dư thừa tại các nước tư bản đã lên đến cực điểm vào 1947-1948 trong một thời kỳ suy thoái khác. Đối với một điều, Stalin dự đoán rằng phe tư bản sẽ nhanh chóng hồi phục bất đồng nội bộ về thuộc địa và thương mại và sẽ không phải là một mối đe doạ cho nước Nga.

Phân tích của Varga một phần dựa trên khuynh hướng chi tiêu của Hoa Kỳ. Phần lớn vì cố gắng trong chiến tranh, trong khoảng thời gian hoà bình đầu tiên năm 1946, chi tiêu liên bang vẫn ở mức 62 tỷ $, hay 30% GDP, tăng từ mức 3% GDP năm 1929, trước Cuộc suy thoái nghiêm trọng, Kinh tế mới và Chiến tranh thế giới thứ hai. Vì vậy Stalin giả thiết rằng người Mỹ sẽ cần nhìn sang Nga để duy trì mức xuất khẩu và chi tiêu ngân sách như cũ.

Tuy nhiên, đã không có cuộc khủng hoảng sản xuất dư thừa thời hậu chiến. Và như Varga đã đoán trước, Mỹ vẫn giữ một mức so sánh chi tiêu chính phủ chặt chẽ ở thời hậu chiến. Chỉ là để giữ một thứ to lớn theo một cách khác. Cuối cùng chính phủ Mỹ hậu chiến không giống với chính phủ thời chiến, với việc thành lập quân đội cùng an ninh quân đội chiếm một phần to lớn của chi tiêu quốc gia.


Hai cái nhìn về thế giới

Tuy nhiên nước Mỹ dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Harry S. Truman từ tháng Tư 1945, đã quyết tâm hình thành một thế giới hậu chiến để mở ra các thị trường của thế giới cho thương mại tư bản theo các nguyên tắc được đưa ra bởi Hiến chương Atlantic: tự quyết, tiếp cận kinh tế công bằng và tái thiết một Châu Âu tư bản có thể một lần nữa trở thành trung tâm của các phi vụ thế giới. Franklin D. Roosevelt đã không bao giờ quên rằng ông đã chào mừng các nguyên tắc của chủ nghĩa lý tưởng Wilsonian trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, và ông đã thấy trách nhiệm của mình trong thập kỷ 1940 là mang lại hoà bình lâu dài và dân chủ thực sự đến cho thế giới.

Chiến tranh thế giới thứ hai dẫn đến sự phá hoại khủng khiếp cơ sở hạ tầng và dân số trên khắp Âu Á, từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương, với hầu như không một nước nào không bị ảnh hưởng. Quyền lực công nghiệp to lớn duy nhất không bị ảnh hưởng – mà thậm chí còn mạnh mẽ thêm về triển vọng kinh tế - là Hoa Kỳ, nước đã nhanh chóng củng cố vị trí của mình. Với tư cách là quyền lực công nghiệp lớn nhất thế giới, là một trong ít nước không bị chiến tranh tàn phá, Hoa Kỳ đứng nhìn để thu nhận được nhiều hơn bất kỳ một nữa nào từ việc mở cửa thị trường thế giới cho xuất khẩu của họ và tiếp cận được với nguồn nguyên liệu thô tối quan trọng.

Khởi đầu Chiến tranh lạnh

Truman có thể phát triển các nguyên tắc đó với một nhóm quyền lực sản xuất ra 50% hàng hoá công nghiệp của thế giới và một năng lực quân sự to lớn độc quyền về bom nguyên tử mới xuất hiện (xem thêm Dự án bom nguyên tử của Liên Xô). Một cường quốc như vậy có thể nặn ra và kiếm lời từ việc khôi phục Châu Âu, lục địa một lần nữa lại cần tới một nước Đức mạnh mẽ làm trung tâm của họ; mục tiêu của họ chính là điều mà Liên Xô tìm cách tránh như sự đổ vỡ của liên minh trong chiến tranh diễn ra.

Việc Hoa Kỳ có đủ nguồn lực để thúc đẩy một kiểu thế giới sau chiến tranh khác xung đột với các quyền lợi của Liên xô. An ninh quốc gia đã thực sự là một phần quan trọng trong chính sách của Liên Xô từ thập kỷ 1920, khi đảng cộng sản thông qua “chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia” của Stalin và loại bỏ ý tưởng của Trotsky về “[cách mạng thế giới]”. Trước chiến tranh, Stalin không cố gắng mở rộng biên giới nước Nga ra tới mức họ từng có ở thời Nga Hoàng.

Trong chiều hướng này, các mục tiêu của Liên bang sô viết có thể không phải là sự mở rộng kiểu gây hấn mà là củng cố, ví dụ như cố gắng giữ vững biên giới phía tây đất nước. Stalin cho rằng Nhật và Đức có thể một lần nữa đe doạ Liên Xô vào thập kỷ 1960, vì vậy dẫn thới việc nhanh chóng dựng lên một cách áp đặt các chính phủ trong vùng đệm cách ly Phát xít: Ba Lan, Romania và Bulgaria. Tuy nhiên, đa số trong phần còn lại của thế giới coi hành động này là một cố gắng mang tính khiêu khích nhằm mở rộng ảnh hưởng Sô viết và nói chung luôn quan sát sự nhận thức của Liên Xô với thái độ hoài nghi.

Những bất đồng về các kế hoạch hậu chiến ban đầu chỉ tập trung ở Đông và Trung Âu. Vì đã tổn thất 20 triệu người trong cuộc chiến, bị Đức và Phát xít Đức tấn công, và chịu hàng chục triệu thương vong vì những cuộc tấn công từ phía Tây tới ba lần trong vòng 150 năm, lần đầu của Napoleon, Liên Xô kiên quyết loại bỏ khả năng của Đức cho một cuộc chiến khác bằng cách giữ họ dưới sự kiểm soát chặt chẽ. Toan tính của Mỹ lại khá khác biệt, bởi vì họ cần một chế độ dân chủ, giữ nước Đức như là một đối tác thương mại và có lẽ cả quân sự.

Winston Churchill, từ lâu đã là một người phản đối cộng sản từ trong tiềm thức, buộc tội Stalin dựng một hàng rào bao quanh đế chế Nga với một “bức màn sắt”. Sau đó, Truman cuối cùng đã từ chối trao phần bồi thường thiệt hại chiến tranh cho Liên Xô từ các cơ sở công nghiệp của Tây Đức, Stalin đã trả đũa bằng cách tách riêng Đông Đức thành một nước cộng sản.

Việc thiếu điểm tiếp cận hàng hải lịch sử của Nga, một mối lo ngại từ lâu của chính sách đối ngoại của Nga từ trước khi có cuộc cách mạng Bolshevik, cũng là một vấn đề của Nga, đó cũng là một vùng nơi quyền lợi bị chia rẽ giữa Đông và Tây. Stalin ép người Thổ cải thiện đường tiếp cận tới Biển Đen thông qua Dardanelles Strait của Thổ, điều này sẽ cho phép Liên xô thông từ Biển Đen đến Địa Trung Hải. Churchill từ trước đó đã công nhận yêu cầu của Stalin, nhưng sau đó người Anh và Mỹ buộc Liên bang sô viết phải lùi bước.

Nhưng khi lãnh đạo Liên Xô không nhận thấy rằng an ninh quốc gia đang bị đe doạ, các chính sách của họ được cân nhắc hơn: Liên Xô cuối cùng đã rút khỏi Bắc Iran, theo đòi hỏi của Anh-Mỹ; Stalin không tuân thủ thoả thuận năm 1944 với Churchill và không giúp những người cộng sản trong cuộc chiến chống chính phủ ở Hy Lạp; tại Phần Lan ông đã chấp nhận một chính phủ thân thiện, không cộng sản; và quân đội Liên Xô đã rút khỏi Tiệp Khắc vào cuối năm 1945. Tuy nhiên, một cuộc đảo chính cộng sản xảy ra ở Prague năm 1948 biến Tiệp Khắc thành một nước vệ tinh hiệu quả của Liên Xô ngay sau chiến tranh tới tận cuối Chiến tranh lạnh.

"Chính sách ngăn chặn" và kế hoạch Marshall

Trong khi Liên xô đồng ý với phác thảo Anh-Mỹ nhằm ngăn cản sự tiếp cận của Sô viết tới Địa Trung Hải (một mục tiêu cốt yếu của chính sách đối ngoại Anh từ Chiến tranh Crimean những năm 1850), Hoa Kỳ làm nóng lên kiểu tu từ học của họ; điều đã trở thành những cố gắng Anh-Mỹ để giúp đỡ chính phủ Hy Lạp trở thành một cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ những người dân “tự do” chống lại những chế độ “chuyên chế”. Điều này có thể được thấy trong Bài phát biểu về học thuyết Truman tháng Ba, 1947, tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ chi tối đa 400 triệu $ cho nỗ lực “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản.

Bằng việc giúp đỡ Hy Lạp một cách hiệu quả, Truman cũng đặt ra một tiền lệ cho việc giúp đỡ chống các chế độ cộng của Mỹ trên khắp thế giới, thậm chí cả các chính thể chuyên chế. Chính sách đối ngoại của Mỹ chuyển thành liên kết với lý lẽ của viên chức Bộ ngoại giao Mỹ George Kennan rằng người Sô viết phải được “ngăn chặn” bằng cách sử dụng “lực phản kháng không thể thay đổi được tại mọi điểm”, tới tận khi sự đổ vỡ quyền lực Sô viết diễn ra.

Hoa Kỳ đã tung ra nhiều cố gắng hồi phục kinh tế, đầu tiên là ở Tây Âu, sau đó ở Nhật Bản (cũng như ở Nam Triều Tiên và Đài Loan). Kế hoạch Marshall bắt đầu bơm 12 tỷ $ vào Tây Âu. Lý do căn bản là các nước ổn định về mặt kinh tế sẽ ít dễ rơi vào tầm ảnh hưởng Sô viết, một quan điểm đã được chứng minh là đúng đắn trong thực tế sau đó.

Để trả lời lại việc Stalin phong toả Berlin, nằm sâu trong vùng của Sô viết mặc dầu là đối tượng dưới quyền kiểm soát của bốn cường quốc. Người Sô viết cắt toàn bộ đường sắt và đường bộ tới Tây Berlin. Tin rằng ông ta có thể làm chết đói và lạnh cóng Tây Berlin dẫn tới sự quy phục, không có xe tải hay tầu hoả được phép vào thành phố. Tuy nhiên, quyết định này đã mang lại kết quả trái ngược khi Truman lao vào một nỗ lực dễ nhận thấy sẽ làm bẽ mặt người Sô viết trên trường quốc tế - cung cấp cho thành phố bị bao vây bằng đường không. Sự đương đầu quân sự đã đe doạ xảy ra khi Truman, với sự giúp đỡ của người Anh, cho các chuyến bay tiếp tế bay qua Đông Đức vào Tây Berlin trong giai đoạn phong toả 1948-1949. Vụ tiếp tế tốn kém này cho Tây Berlin được gọi là Cầu hàng không Berlin.

Truman gia nhập cùng mười một quốc gia khác thành lập lên Tổ chức hiệp ước Bắc Đại tây dương (NATO) năm 1949, sự “dính líu” đầu tiên của Hoa Kỳ tới liên minh Châu Âu trong 170 năm. Stalin đáp trả các hành động đó bằng cách hợp nhất các nền kinh tế Đông Âu trong kế hoạch Marshall của riêng mình, nổ thử quả bom nguyên tử đầu tiên của Sô viết năm 1949, ký liên minh với Trung Quốc cộng sản tháng Hai 1950, và tạo nên khối Hiệp ước Warsaw, đối thủ Đông Âu của NATO.

Các quan chức Mỹ nhanh chóng nâng cao và mở rộng “ngăn chặn”. Trong một tài liệu mật năm 1950, NSC-68, họ dự định tăng cường sức mạnh các hệ thống liên minh của mình, tăng chi tiêu quốc phòng lên gấp bốn lần, và lao vào một chiến dịch tuyên truyền tỉ mỉ để thuyết phục người Mỹ gia nhập cuộc chiến tranh lạnh tốn kém này. Truman ra lệnh phát triển bom hydro; vào đầu năm 1950 Mỹ lao vào cố gắng đầu tiên nhằm hỗ trợ chủ nghĩa đế quốc tại Đông Dương thuộc Pháp đối lại cuộc kháng chiến do những người cộng sản lãnh đạo; và Hoa Kỳ đã lao vào cái mà người Sô viết gọi là sự xâm phạm hiển nhiên tới các hiệp ước thời chiến tranh: các kế hoạch tạo dựng quân đội Tây Đức.

Giai đoạn ngay sau 1945 có thể là điểm nhấn của lịch sử cho tính quần chúng của tư tưởng cộng sản. Các đảng cộng sản thắng đa số các cuộc bầu cử trong các cuộc bầu cử tự do tại các nước như Bỉ, Pháp, Italy, Czechoslovakia, và Phần Lan; và thắng một lượng lớn ủng hộ của dân dúng tại Châu Á (Việt nam, India, và Nhật Bản) và khắp Mỹ Latin. Hơn nữa, họ được ủng hộ rộng lớn ở Trung Quốc, Hy Lạp và Iran, nơi các cuộc bầu cử tự do vẫn chưa có hoặc bị cản trở nhưng là nơi những người cộng sản có sự phát triển mạnh.

Để đối lại, Hoa Kỳ kéo dài một chiến dịch công kích chống cộng rộng lớn. Mỹ dự định “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản thông qua cả chính sách ngoại giao công kích và các chính sách ngăn chặn. Xem lại quá khứ, chính sách này đầu tiên rất hiệu quả: Washinton đưa vai trò của mình thành lãnh đạo “thế giới tự do” và ít nhất thì cũng hiệu quả như việc Liên bang sô viết đưa vai trò của mình thành lãnh đạo phong trào “tiến bộ” và “chống đế quốc”.

Chiến tranh Triều Tiên

Năm 1950 Liên xô phản đối sự thực rằng ghế của Trung Quốc tại Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc do nước Cộng hoà Trung Hoa (Trung Hoa dân quốc - do những người Quốc gia) nắm giữ, và tẩy chay các cuộc gặp. Họ sau đó đã hối tiếc quyết định này khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra. Liên hiệp quốc thông qua một nghị quyết lên án các hành động của Bắc Triều Tiên và cung cấp ủng hộ quân sự cho Nam Triều Tiên. Nếu Liên xô có mặt ở các cuộc gặp có thể họ đã chắc chắn phủ quyết nghị quyết này. Sau sự kiện đó, Liên xô không bao giờ còn vắng mặt tại các cuộc gặp của Hội đồng bảo an.

Giai đoạn 1953-1985

Sự loại bỏ chủ nghĩa Stalin và kỷ nguyên Khrushev

Sau khi Stalin chết tháng Ba 1953, ông được kế tục bởi Nikita Khrushchev cho chức vụ Thư ký thứ nhất của Uỷ ban trung ươngGeorgi MalenkovThủ tướng Liên bang sô viết. Ban lãnh đạo mới tuyên bố một sự ân xá cho một số tù nhân bị kết tội vì các vi phạm tội ác, tuyên bố cắt giảm giá cả, và bỏ bớt những cấm đoán tự do cá nhân. Việc loại bỏ chủ nghĩa Stalin cũng được báo hiệu một sự kết thúc cho phai trò của những trại lao động ở mức độ lớn trong nền kinh tế. Trong giai đoạn lãnh đạo tập thể, Khrushev từng bước củng cố quyền lực. Tại một bài phát biểu về Sự sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó trước một kỳ họp kín tại đại hội đảng lần thứ hai mươi của CPSU, 25 tháng Hai, 1956, Khrushev khiến cử toạ bị sốc khi lên án sự cai trị độc tài của Stalin và sự sùng bái cá nhân. Ông cũng tấn công các tội ác do các đàn em thân cận của Stalin tiến hành.

Tác động của những chính sách của Sô viết rất rộng lớn. Bài diễn văn đã ngáng chân tính hợp pháp của những kẻ thù Stalin sót lại của ông, đặc biệt tăng thế lực của ông trong nước. Sau đó, Khrushev giảm bớt các ngăn cấm, thả tự do hàng triệu tù chính trị (những người ở trong các Gulag giảm từ 13 triệu năm 1953 xuống 5 triệu năm 1956-57) và bắt đầu các chính sách kinh tế nhấn mạnh hàng hoá thương mại hơn là sản xuất than và thép, cho phép mức sống tăng lên ngoạn mục và cùng lúc có mức tăng trưởng kinh tế cao.

Sự giảm bớt kiểm soát cũng gây nên hiệu ứng mạnh trên các nước vệ tinh vùng Trung Âu, nhiều nước trong số họ cảm thấy bức bối về ảnh hưởng Sô viết lên công việc của họ. Những cuộc náo động xảy ra ở Ba Lan trong mùa hè năm 1956, dẫn tới sự trả đũa từ các lực lượng địa phương. Một sự biến động nhanh chóng tiếp nối dẫn tới sự nổi lên của Władysław Gomułka trên đỉnh quyền lực vào tháng Mười. Điều này gây lên một cuộc đưa quân vào của Sô viết khi những người cộng sản Ba Lan đã bầu ông ta lên mà không cần tham vấn trước Kremlin. Nhưng Khrushev thoái lui vì Gomulka phát triển rộng rãi trong nước. Ba Lan vẫn là một thành viên của Hiệp ước Warsaw (được thành lập một năm trước), và đổi lại, Liên bang sô viết sẽ ít can thiệp hơn vào công việc nội bộ và bên ngoài của họ.

Cùng năm đó, Cách mạng 1956 của Hungaria nổ ra bị quân đội Sô viết đàn áp dã man. Khoảng 25-50,000 người khởi nghĩa Hungaria và 7,000 quân Sô viết thiệt mạng, hàng ngàn người khác bị thương, và gần một phần tư triệu rời bỏ đất nước thành người tị nạn. Cuộc cách mạng là một cú đánh vào những người cộng sản ở các nước phương Tây; nhiều người trước đó ủng hộ Sô viết quay lại chỉ trích họ.

Những năm sau đó Khrushev đánh bại một sự phối hợp của những người theo Stalin nhằm chiếm lại quyền lực, đặc biệt là đánh bại cái gọi là “Nhóm chống đảng.” Sự kiện này cũng phản ánh trạng thái mới của chính trị Sô viết - cuộc tấn công có ý nghĩa quyết định nhất vào những kẻ theo Stalin được tiến hành bởi bộ trưởng quốc phòng Georgy Zhukov, và áp đặt những đe doạ đối với những kẻ bày mưu là rõ ràng, tuy nhiên, không kẻ nào trong “nhóm chống đảng” bị giết hại: lúc đó một người bị chuyển sang điều khiển một nhà máy điện ở vùng Cáp cát, người kia Vyacheslav Molotov, trở thành đại sứ ở Mông Cổ.

Khrushchev trở thành thủ tướng ngày 27 tháng Ba 1958, ngừng nắm quyền tuyệt đối trong nước - truyền thống sau đó được mọi người trước và sau ông từng làm.

Giai đoạn mười năm sau cái chết của Stalin cũng chứng kiến sự đòi hỏi của quyền lực chính trị về sự áp bức. Đảng trở thành thể chế thống trị cảnh sát mậtquân đội.

Giúp đỡ đối với các nước đang phát triển và nghiên cứu khoa học, đặc biệt kỹ thuật vũ trụ và vũ khí, giữ Liên xô ở vị trí một trong hai siêu cường của thế giới. Những người Sô viết đã phóng tầu vũ trụ bay quanh trái đất đầu tiên của loài người, Sputnik, nó bay quanh trái đất năm 1957. Người Sô viết cũng đưa người đầu tiên lên vũ trụ Yuri Gagarin, năm 1961.

Khrushchev khôn hơn những đối thủ theo Stalin của ông. Nhưng ông bị những đối thủ chính trị coi - đặc biệt là những nhà kỹ trị chuyên nghiệp cấp cao đang nổi lên – là một kẻ nông dân quê mùa, người sẽ chặn ngang lời người khác để sỉ nhục họ.

Các cuộc cải cách và sự mất chức của Khrushchev

Trong những năm lãnh đạo, Khrushchev cố gắng thực hiện cải cách trong nhiều lĩnh vực. Các vấn đề của nông nghiệp Sô viết, một mối lo ngại lớn của Khrushchev từ đầu đã lôi cuốn được sự chú ý của những người trong tập thể lãnh đạo, dẫn tới một sự đổi mới quan trọng trong lĩnh vực này của nền kinh tế Sô viết. Nhà nước khuyến khích nông dân trồng cấy nhiều hơn trên đất riêng của họ, tăng chi phí cho mùa màng trồng tại các trang trại tập thể, và đầu tư hơn nữa vào nông ngiệp.

Trong chiến dịch Virgin Lands Campaign của mình vào giữa thập kỷ 1950, Khrushchev đã mở nhiều vùng đất rộng lớn làm trang trại ở Kazakhstan và các vùng lân cận của Nga. Những vùng đất nông nghiệp mới đó trở thành dễ bị tổn thương trước hạn hán, nhưng trong một vài năm chúng đã mang lại những vụ mùa bội thu. Tuy nhiên, sau đó các cải cách nông nghiệp của Khrushchev đã chứng minh sự giảm sút sản lượng. Các kế hoạch của ông để trồng ngô và tăng lúa mỳ và bơ sữa phá sản, và việc tái cơ cấu các trang trại nông nghiệp thành những đơn vị lớn hơn gây ra sự lộn xộn ở các vùng nông thôn.

Nỗ lực của Khrushchev nhằm cải cách công nghiệp và tổ chức hành chính thậm chí còn gây ra các vấn đề nghiêm trọng hơn. Trong một nỗ lực chính trị nhằm giảm bớt tình trạng quan liêu nhà nước, năm 1957 Khrushchev loại bỏ các bộ công nghiệp ở Moscow và thay thế chúng bằng các hội đồng kinh tế địa phương (sovnarkhozes).

Mặc dù ông dự định dùng những uỷ ban kinh tế này có trách nhiệm nhiều hơn về những nhu cầu địa phương, việc bỏ tập trung trung ương trong công nghiệp dẫn tới sự phá vỡ và không hiệu quả. Liên quan tới việc bỏ tập trung trung ương là quyết định của Khrushchev năm 1962 nhằm phân lại vai các tổ chức đảng theo đường lối kinh tế hơn là theo hành chính. Kết quả chia rẽ bộ máy của đảng thành các lĩnh vực công nghiệp và công nghiệp tại các vùng (tỉnh) mức và bên dưới đóng góp vào sự xáo trộn và xa lánh nhiều cán bộ đảng ở mọi cấp. Tính chất triệu chứng của khó khăn kinh tế quốc gia là sự từ bỏ kế hoạch kinh tế đặc biệt bảy năm của Khrushchev (1959-65) năm 1963, hai năm trước khi hoàn thành.

Tới năm 1964, danh tiếng của Khrushchev đã bị xuống thấp ở nhiều vùng. Tăng trưởng công nghiệp chậm lại trong khi nông nghiệp không có tiến triển. Bên ngoài, sự chia tách với Trung Quốc, việc xây dựng bức tường Berlin và cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã làm xói mòn hình ảnh nước Nga sô viết trên trường quốc tế, và các cố gắng của Khrushchev nhằm cải thiện quan hệ với phương Tây gây phản tác dụng nhiều trong quân đội. Cuối cùng, sự tái cơ cấu của đảng năm 1962 gây ra sự xáo trộn trong toàn hệ thống chính trị sô viết về quyền điều khiển. Trong chính sách quân sự, sự tàn nhẫn của Khrushchev trong việc theo đuổi một chính sách phát triển các lực lượng tên lửa Sô viết với mục tiêu giảm mức độ các lực lượng vũ trang, nhờ thế giảm số người trẻ tuổi dành cho lực lượng sản xuất và giảm các nguồn tài nguyên nhằm phát triển kinh tế, đặc biệt hàng hoá tiêu thụ nói chung. Chính sách này về mặt cá nhân cũng cho thấy là một thảm hoạ, làm những gương mặt chính yếu trong việc thành lập quân đội Sô viết xa lánh và đưa lên cực điểm sự thất bại (trong con mắt người Sô viết) về vụ khủng hoảng tên lửa với phương Tây như bức màn sắt Châu Âu trở nên chắc chắn hơn.

Sự khoe khoang của Khrushchev về lực lượng tên lửa Sô viết cho phép John F. Kennedy có một lý do để chống lại Richard Nixon trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1960 — cái gọi là 'Lỗ hổng tên lửa'. Nhưng tất cả cố gắng của Khrushchev (có thể là ngay thật) nhằm xây dựng một mối quan hệ cá nhân với tổng thống mới không diễn ra, vì kiểu tổng hợp đặc trưng của sự khoe khoang của ông, sự tính toán sai lầm và sự rủi ro là kết quả của sự thất bại Cuba.

Tháng mười 1964, trong khi Khrushchev đang nghỉ ở Crimea, Đoàn chủ tịch đưa ông ra khỏi bộ máy và từ chối cho phép ông đưa trường hợp của mình ra trước Uỷ ban trung ương. Khrushchev nghỉ hưu như một công dân sau khi người kế nhiệm ông tố cáo ông về “các kế hoạch liều lĩnh, những kết luận thiếu chín chắn, và các quyết định hấp tấp.” Tuy nhiên, Khrushchev cũng phải được ghi nhớ về sự từ bỏ chủ nghĩa Stalin của ông, sự tự do hoá đáng nhi nhận trong nước và sự uyển chuyển lớn hơn ông mang lại cho lãnh đạo Sô viết.

Kỷ nguyên Brezhnev

Sau năm 1964, thư ký thứ nhất CPSU Leonid Brezhnev và thủ tướng Aleksei Kosygin nổi lên như những cán bộ có ảnh hưởng nhất trong ban lãnh đạo tập trung. Thiết tha muốn tránh các sai lầm của Khrushchev, Brezhnev và Kosygin, những người đại diện cho một thế hệ mới những nhà kỹ trị sau chiến tranh điều hành công việc nhà nước và đảng theo một cách kín đáo, thận trọng và cẩn thận.

Vào giữa những năm 1960, Liên bang sô viết là một xã hội công nghiệp hoá phức tạp với một sự phân chia lao động rắc rối và sự kết nối rối rắm giữa các ngành công nghiệp trên một sự mở rộng về địa lý đã đạt mức độ tương đương với các nước phương Tây. Tuy nhiên, các cải cách xã hội và chính trị đã bị đình lại, dẫn tới sự nảy sinh thuật ngữ “tình trạng tù hãm” (застой, zastoy) trong phương diện đó.

Trong khi còn phải lo lắng về kinh tế, khi kế hoạch năm năm lần thứ nhất do Uỷ ban kế hoạch nhà nước (Gosplan) soạn thảo tập trung lập kế hoạch như là căn bản của nền kinh tế theo nghị quyết (xem Khái quát quá trình kế hoạch hoá kinh tế Sô viết), Liên bang sô viết vẫn là một nước nông nghiệp rộng lớn thiếu một ngành công nghiệp cao cấp và phức tạp. Vì vậy, các mục tiêu của nó, là tăng cơ sở công nghiệp của đất nước, là mục tiêu tăng trưởng liên tục hay sự huy động các nguồn lực. Với một chi phí lao động lớn, nhờ phần lớn ở lao động tù nhân, và việc quân sự hoá một cách hiệu quả, Liên xô tạo ra một nền kinh tế hiện đại, được công nghiệp hoá cao nhanh hơn bất kỳ một quốc gia nào trước đó. Dưới sự giám sát của Brezhnev, nền kinh tế Sô viết vẫn không bị kiệt quệ khả năng tăng trưởng của mình. Liên xô cải thiện cuộc sống nhân dân bằng cách tăng lương gấp đôi cho khu vực thành thị và tăng lương nông thôn ở mức 75%, xây dựng hàng triệu căn hộ gia đình, và sản xuất một lượng lớn hàng hoá tiêu thụ và đồ dùng gia đình.

Sản xuất công nghiệp cũng tăng 75%, và Liên xô trở thành nhà sản xuất lớn nhất thế giới về dầu mỏ và thép. Hai mươi năm sau cái chết của Stalin năm 1953 là giai đoạn tốt nhất trong lịch sử nước Nga về cuộc sống người dân trong lĩnh vực nâng cao mức sống, ổn định và hoà bình.

Sự sợ hãi, nạn đói, và chiến tranh thế giới là những ký ức kinh hoàng trong khi làn sóng của lịch sử có vẻ quay sang ủng hộ Liên bang sô viết. Hoa Kỳ sa lầy trong giảm phát kinh tế, kết quả của sự cấm vận dầu mỏ từ OPEC, lạm phát xảy ra vì những chi tiêu quá mức của chính phủ cho Chiến tranh Việt Nam, đó là còn chưa nói tới tình trạng sa lầy trong thời chiến. Trong khi đó, Moscow có thể tăng cường lợi ích quốc gia bằng cách chiếm các vị thế chiến lược ở nước ngoài khi các chế độ tiền Sô viết đang sải những bước dài, đặc biệt trong Thế giới thứ ba. Bắc Việt Nam đã đánh bại Hoa Kỳ, trở thành một Nhà nước cộng sản thống nhất trong khi những cuộc nổi dậy Mác xít đang lan rộng khắp Châu Phi, Đông Nam Á và Mỹ La tin.

Các vấn đề của kinh tế kế hoạch hoá

Tuy nhiên, trong những năm cuối của kỷ nguyên Brezhnev, nền kinh tế Sô viết (xem Nền kinh tế của Liên bang sô viết) bắt đầu trở nên đình trệ và việc dân số tăng bắt đầu đòi hỏi số lượng hàng tiêu dùng lớn hơn.

Trong những năm sau chiến tranh, kinh tế Sô viết đã bước vào một giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ (dựa trên những sự cải thiện khả năng sản xuất), với một đống những thách thức mới từ những sự tăng trưởng đó (sự huy động vốn và lao động) của thời kỳ Stalin.

Khi kinh tế Sô viết trở nên phức tạp hơn, nó đòi hỏi nhiều hơn và sự giải kết phức tạp hơn từ những con số kiểm soát (các mục tiêu kế hoạch) và đầu vào của các nhà máy. Bởi vì nó đòi hỏi trao đổi thông tin nhiều hơn giữa các doanh nghiệp và bộ kế hoạch, và số lượng các doanh nghiệp, tờ rớt, và bộ tăng theo cấp số nhân, nền kinh tế Sô viết bắt đầu trì trệ. Kinh tế Sô viết đã tăng trưởng chậm chạm khi nó phải đối mặt với sự thay đổi, chấp nhận các kỹ thuật giúp làm giảm giá thành và đưa ra những khuyến khích tới mọi cấp để cải thiện tăng trưởng, khả năng sản xuất và hiệu năng.

Ở mức độ doanh nghiệp, các nhà quản lý thường bận tâm nhiều hơn đến sự tham quyền cố vị hơn là cải thiện khả năng sản xuất. Họ nhận mức lương cố định và chỉ nhận được khuyến khích khi hoàn thành kế hoạch dựa trên cơ sở đảm bảo công việc, thưởng, và các khoản lợi ích như bệnh viện đặc biệt và nhà ở nông thôn cá nhân. Các nhà quản lý nhận những lợi ích đó khi các kế hoạch được hoàn thành vượt mức, nhưng, ví dụ, khi họ vượt định mức cực nhiều, họ chỉ thấy các con số kiểm soát tăng lên. Từ đó, đã có khuyến khích để vượt mục tiêu nhưng không nhiều. Các doanh nghiệp thường đánh giá thấp khả năng sản xuất của mình để có thể đòi hỏi thêm nhiều quyền lợi từ các mục tiêu kế hoạch hay từ các con số kiểm soát với các bộ (tất nhiên, các mục tiêu sẽ trở nên dễ dàng hơn để hoàn thành) Một vấn đề khác là định mức sản xuất luôn quy định số lượng hàng hoá được sản xuất của một doanh nghiệp chứ không phải là chất lượng. Vì vậy các nhà quản lý thường xúi dục đạt mức sản xuất bằng cách bỏ qua chất lượng hàng hoá họ sản xuất ra. Vì thế đa số hàng sản xuất của nền kinh tế Sô viết có chất lượng rất thấp theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này dẫn tới các vấn đề thường xuyên về các máy móc hư hỏng do được sản xuất với chất lượng kém, và phá vỡ phần còn lại của nền kinh tế.

Kế hoạch cũng rất cứng nhắc; những nhà lập kế hoạch không thể chệch hướng khỏi kế hoạch và được chỉ định một số quỹ cho một số vốn và lao động đầu vào. Kết quả là, các nhà lập kế hoạch không thể cải thiện khả năng sản xuất bằng cách đưa ra những công nhân không cần thiết vì sự kiểm soát lao động đó. Có thực tình trạng thiếu việc làm vì những quản ký trong các kế hoạch được vạch ra trong quá trình cò kè tập thể giữa các doanh nghiệp và các bộ.

Ở mức độ doanh nghiệp, chế độ khuyến khích không có vì việc áp dụng kỹ thuật tiết kiệm chi phí. Các nhà lập kế hoạch thường thưởng khách hàng với giá thấp hơn là thưởng doanh nghiệp vì khả năng sản xuất của họ. Nói cách khác, cải thiện công nghệ thường không xảy ra để biến ngành công nghiệp trở nên có nhiều lợi hơn cho những người liên quan đến nó.

Những năm thuộc thời kỳ Khrushchev và Brezhnev chứng kiến sự nhượng bộ đối với người tiêu thụ: lương bổng cho công nhân rất cao, trong khi giá thành bị giữ thấp ở mức do hành chính áp đặt. Vì vậy mức thu nhập tăng cao hơn nhiều so với mức giá cả, mặc dù khả năng sản xuất thấp. Vì thế, sự thiếu hụt nguồn cung cấp xảy ra thường xuyên.

Vũ khí cũng là một lỗ thoát khác của kinh tế tiêu thụ. Với một GDP hiếm khi vượt mức 70% của Hoa Kỳ, Sô viết đã phải đối mặt với một gánh nặng không cân sức về vũ khí, bắt buộc đất nước phải dành hết các nguồn tài nguyên xã hội cho lĩnh vực quốc phòng

Những kêu gọi cải cách

Khi không khí chính trị càng ngày càng được nói lỏng từ khi bãi bỏ chế độ Stalin, một phong trào cải cách lan lên các cấp cao của đảng vẫn có thể sống sót khi Khrushchev bị trục xuất năm 1964.

Đáng chú ý nhất là những cải cách về hướng thị trường năm 1965, dựa trên ý tưởng của nhà kinh tế Sô viết Evsei Liberman, và được thủ tướng Aleksei Kosygin ủng hộ, đó là một cố gắng nhằm sửa sang lại hệ thống kinh tế và đương đầu với các vấn đề ngày càng rõ nét ở mức độ doanh nghiệp. Những cải cách của Kosygin kêu gọi trao cho các doanh nghiệp công nghiệp nhiều quyền hơn về kiểm soát khả năng sản xuất của họ và một số uyển chuyển về lương bổng. Hơn nữa họ tìm cách chuyển các mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp về hướng tạo ra lợi nhuận, cho phép họ đưa một phần lợi nhuận vào quỹ riêng. Tới cuối những năm 1960 Liên bang sô viết vẫn duy trì một mức tăng trưởng cao hơn phương Tây. Trong chiều hướng này, một số chuyên gia Sô viết và Nga đã cho rằng các cuộc cải cách của Kosygin năm 1965 – không phải các cuộc cải cách của Gorbachev những năm 1980 – là cơ hội cuối cùng để tha thứ cho sự lãnh đạo của nền kinh tế hành chính mệnh lệnh Sô viết và tha thứ dân chúng khỏi sự gian khổ họ đã phải đối mặt trong những năm cuối thập kỷ 1970.

Tuy nhiên, kiểu cách của lãnh đạo mới đặt ra một số vấn đề cho chính những chính sách cải cách của họ. Sự lãnh đạo tập trung tìm kiếm điều hoà những quyền lợi của nhiều lĩnh vực khác nhau của quốc gia, đảng và nền kinh tế quan liêu. Kết quả, các bộ kế hoạch và quân đội - những lĩnh vực bị đe doạ nhiều nhất từ các cải cách của Kosygin – đã có thể ngăn cản các cố gắng nhằm cải cách triệt để. Lo sợ một sự chuyển dời khỏi những kiểm soát chi tiết và kế hoạch trung ương như ở trên, các bộ kế hoạch - số lượng của chúng sinh sôi nhanh chóng - chống trả và bảo vệ quyền lực cũ của họ. Các bộ kiểm soát nguồn cung và hoàn trả sự thi hành, và vì thế là một nhân tố quan trọng của xã hội Sô viết. Đề giữ vững quyền kiểm soát nền công nghiệp, các nhà lập kế hoạch bắt đầu đưa ra nhiều chỉ dẫn chi tiết để làm chậm lại cải cách, treo quyền tự do hoạt động của doanh nghiệp.

Trong lúc đó, Kosygin, thiếu sức mạnh và sự ủng hộ để phản công lại ảnh hưởng của họ. Vì các cải cách đó nhằm mục tiêu tăng cường khả năng sản xuất bằng cách bỏ bớt số nhân công dư thừa, hỗ trợ từ phía công nhân bị giảm thiểu. Mặc dù giới lãnh đạo doanh nghiệp kiếm được nhiều nhất từ cải cách, những ủng hộ của họ cũng thờ ơ, với nỗi sợ hãi rằng cải cách cuối cùng sẽ trở nên dao động. Cuối cùng, vào năm 1968, có một ví dụ không may mắn về vụ Mùa xuân Praha ở Czechoslovakia, nơi một giai đoạn tự do hoá chính trị đã chấm dứt vào ngày 20 tháng Tám khi 200,000 quân khối Hiệp ước Warsaw và 5,000 xe tăng tràn vào đất nước, tiếp đó là học thuyết Brezhnev.

Đầu những năm 1970, quyền lực của đảng có liên quan tới nền kinh tế quan liêu và quân sự đã bị suy yếu đáng kể. Xung lượng cho cải cách kinh tế và chính trị bị ngăn cản mạnh mẽ tới tận khi Mikhail Gorbachev nổi lên vào những năm giữa 1980.

Năm 1980 một phong trào cải cách nổi lên ở Ba Lan, Công đoàn đoàn kết, bị đàn áp khi người cộng sản lãnh đạo, Wojciech Jaruzelski, tuyên bố luật quân sự, sợ rằng một sự phản kháng tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Công đoàn đoàn kết sẽ dẫn tới một sự can thiệp quân sự của Sô viết như Czechoslovakia đã phải chịu trong phong trào Mùa xuân Praha. Tuy nhiên, Công đoàn đoàn kết vẫn sống sót qua những năm luật quân sự và sẽ tiếp tục làm xói mòn ảnh hưởng và sự kiểm soát của Liên xô trên Ba Lan.

Sự chuyển giao quyền lãnh đạo

Vào năm 1982 sự trì trệ của nền kinh tế Sô viết là rất rõ ràng, như được kiểm chứng bởi sự thật rằng Liên bang sô viết đã phải nhập khẩu lương thực từ Mỹ từ những năm 1970, nhưng hệ thống vẫn chưa sẵn sàng cho một sự thay đổi quyết liệt. Thời kỳ chuyển giao đã chia rẽ kỷ nguyên Brezhnev và Gorbachev dù chúng giống cái cũ hơn là cái mới, mặc dù những lời góp ý về cải cách đã xuất hiện ngay từ năm 1983.

Sự đứt quãng Andropov

Hai ngày giữa cái chết của Brezhnev và cuộc bầu cử Yuri Andropov làm Tổng thư ký mới, cho nhiều người ngoài cuộc thấy rằng cuộc cạnh tranh quyền lực đã xảy ra ở Kremlin. Tuy nhiên, khi đã nắm quyền, Andropov không mất thời gian để thăng chức cho những kẻ ủng hộ mình. Tháng Sáu, 1983 ông kiêm chức chủ tịch hội đồng chủ tịch tối cao Sô viết, vì thế trở thành người đứng đầu nhà nước về mặt nghi thức. Brezhnev đã phải mất mười ba năm để tóm được chức vụ này. Trong thời kỳ cai trị ngắn ngủi của mình, Andropov đã thay thế hơn một phần năm số bộ trưởng Sô viết và các tổng thư ký vùng của đảng và hơn một phần ba người đứng đầu các bộ phận bên trọng bộ máy Uỷ ban trung ương. Kết quả, ông đã thay thế những người già bằng người trẻ, những nhà quản lý năng động hơn. Nhưng khả năng tái tạo cấp lạnh đạo cao nhất của Andropov bị ngăn trở vì sức khoẻ kém của ông và sự ảnh hưởng của người đối nghịch Konstantin Chernenko, người trước đó kiểm soát các sự kiện nhân sự trong Uỷ ban trung ương.

Chính sách trong nước của Andropov quay mạnh về hướng thiết lập kỷ luật và trật tự trong xã hội Sô viết. Ông tránh cải cách căn bản kinh tế và chính trị, thay vào đó là đưa ra những mức độ thấp về thật thà trong chính trị và giảm nhẹ thử nghiệm kinh tế tương tự như những gì đã đi cùng với Kosygin ở giữa những năm 1960. Tiếp nối với những thử nghiệm kinh tế đó, Andropov đã tung ra một cuộc chống tham nhũng lên tới cấp cao trong chính phủ và hàng ngũ đảng. Andropov cũng tìm cách củng cố kỷ luật.

Về đối ngoại, Andropov đã tiếp tục chính sách của Brezhnev. Mối quan hệ Xô-Mỹ bắt đầu bị xấu đi nhanh chóng vào tháng Ba 1983, khi Tổng thống Mỹ Ronald Reagan gọi Liên bang sô viết là một “đế quốc ma quỷ”. Người phát ngôn Sô viết chê bai sự chống cộng của ông Reagan là “điên rồ, và hay gây gổ”.

Sức khoẻ của Andropov suy sụp nhanh chóng trong mùa hè và thu 1983, ông chết vào tháng Hai 1984 sau khi biến mất khỏi công chúng trong vài tháng. Di sản đáng chú ý nhất của ông cho Liên bang sô viết là sự khám phá và thăng tiến Mikhail Gorbachev của ông. Bắt đầu vào năm 1978, Gorbachev đã tiến bước trong hai năm qua hệ thống cấp bậc của Kremlin thành thành viên thường trực của Bộ chính trị. Các trách nhiệm của ông ta trong việc chỉ định nhân sự cho phép ông tạo các mối quan hệ và phân phát sự ủng hộ cần thiết cho một cuộc vận động tương lai để trở thành tổng thư ký. Ở điểm này, các chuyên gia phương Tây tin rằng Andropov đã chuẩn bị Gorbachev làm người kế tục mình. Tuy nhiên, mặc dầu Gorbachev hoạt động như một phó tổng thư ký dưới thời Andropov đau ốm, thời gian của Gorbachev vẫn chưa tới khi chủ của ông chết đầu năm 1984.

Sự đứt quãng Chernenko

Ở tuổi bảy hai, Konstantin Chernenko có sức khoẻ kém và không thể đóng một vai trò hoạt động quan trọng trong việc tạo lập chính sách khi ông được lựa chọn sau những tranh cãi kéo dài, để kế tục Andropov. Nhưng thời gian tại vị ngắn ngủi của Chernenko đã mang lại một số thay đổi chính sách đáng chú ý. Những thay đổi nhân sự và sự điều tra tham nhũng diễn ra dưới thời Andropovbị chấm dứt. Chernenko tán thành đầu tư thêm vào sản xuất hàng tiêu thụ, vào dịch vụ và vào nông nghiệp. Ông cũng kêu gọi giảm bớt can thiệp của CPSU vào nền kinh tế và tăng cường lưu tâm đến dư luận xã hội. Tuy nhiên, sự đàn áp của KGB đối với những người bất đồng cũng tăng lên.

Mặc dù Chernenko đã kêu gọi tái thiết lập tình trạng hoà hoãn với phương Tây, ít có nỗ lực được tiến hành để nhằm xoá bỏ bất hoà trong các quan hệ Đông-Tây trong thời gian cai trị của ông. Liên bang sô viết tẩy chay Olympics mùa hè 1984 ở Los Angeles, trả đũa việc Hoa Kỳ tẩy chay Olympics mùa hè 1980 ở Moscow. Vào cuối mùa hè 1984, Liên bang sô viết cũng ngăn cản một chuyến thăm Tây Đức của lãnh đạo Đông Đức Erich Honecker. Cuộc chiến ở Afghanistan cũng căng thẳng, nhưng vào cuối mùa thu 1984 Hoa Kỳ và Liên bang sô viết đã thoả thuận tiếp tục các cuộc thoả thuận về kiểm soát vũ khi đầu năm 1985.

Tình trạng sức khoẻ kém của Chernenko đặt ra câu hỏi gay cấn về việc người kế tục. Chernenko trao cho Gorbachev vị trí cao trong đảng có những ảnh hưởng lớn trong Bộ chính trị, và Gorbachev đã có thể kiếm được những ủng hộ quan trọng từ phía Bộ trưởng ngoại giao Andrey Gromyko trong cuộc đấu tranh quyền lực. Khi Chernenko chết vào tháng Ba 1985, Gorbachev đã ở vị trí thuận lợi để nắm lấy quyền lực.

Giai đoạn 1985-1991

Năm 1985 đánh dấu sự vươn tới chức vụ Tổng thư ký của Liên bang sô viết của Mikhail Gorbachev tiếp sau cái chết của Konstantin Chernenko. Mặc cho những cố gắng nhằm đưa ra các ý tưởng như tính công khai thẳng thắn (sự mở rộng chính trị) và đổi mới (cơ cấu lại kinh tế), Gorbachev thấy mình đang phải lãnh đạo một đế chế suy tàn. Liên xô phải đối mặt với sự chống đối từ bên ngoài qua tính kiêu căng của sự vượt trội quân sự của phương Tây và cuộc đấu tranh bên trong không ngừng nghỉ của các nước cộng hoà do Boris Yeltsin lãnh đạo đòi quyền chủ quyền. Một cuộc đảo chính bất thành mùa hè 1991 chống lại bộ máy chính quyền Gorbachev đã thúc đẩy nhanh chóng đến sự qua đời của Liên bang sô viết. Sự tan rã chính thức của USSR được hoàn thành vào ngày Giáng sinh, 1991, khi Gorbachev từ chức và các nước cộng hoà riêng biệt lấy lại vai trò của chính phủ trung ương. Vào 31 tháng Mười Hai 1991, lá cờ Sô viết bị hạ xuống lần cuối cùng trên điện Kremlin.

Sự nổi lên của Gorbachev và cải cách

Mặc dầu cải cách đã bị ngừng khoảng giữa 1969–1982, sự nổi lên của thế hệ mới đã tạo ra động lượng mới cho cải cách. Sự thay đổi các mối quan hệ với Hoa Kỷ có thể cũng là một sự thúc đẩy cho cải cách. Trong khi chính Jimmy Carter là người đã chấm dứt chính sách lắng dịa tiếp sau sự can thiệp của Sô viết vào Afghanistan, những căng thẳng Đông-Tây trong nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan (1981–1985) gia tăng đến mức căng thẳng chưa từng thấy kể từ sau vụ khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. Vào năm 1985, một giai đoạn cai trị ngắn của Konstantin Chernenko như Tổng thư ký đã chấm dứt với cái chết của ông và sự đảm đương vị trí đó của Mikhail Gorbachev.

Vào thời điểm Gorbachev đánh dấu sự khởi đầu của một quá trình sẽ dẫn tới sự sụp đổ chính trị của Liên bang sô viết và kết quả phá huỷ nền kinh tế hành chính mệnh lệnh Sô viết thông qua các chương trình công khai thẳng thắn (mở rộng chính trị), đổi mới (cơ cấu lại kinh tế), và uskorenie (tăng tốc phát triển kinh tế), nền kinh tế Sô viết phải chịu ảnh hưởng cả từ lạm phát ẩn và sự thiếu hút nguồn cung khắp nơi bị trầm trọng thêm bằng việc mở cửa ngày càng nhiều các chợ đen làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế chính thức.

Nó là một minh chứng rằng các chính sách của Gorbachev về mở cửa và dân chủ hoá đã bắt đầu vượt ra ngoài kiểm soát và vượt quá khỏi điều đã dự định. Đổi mới và công khai thẳng thắn đã trưng bày về việc làm sao một khi Đảng cộng sản cách mạng đã trở thành một thứ suy tàn tại một nơi cực trung tâm của xã hội.

Việc nới lỏng cơ quan kiểm duyệt dưới ảnh hưởng của công khai thẳng thắn dẫn tới việc Đảng cộng sản mất quyền kiểm soát tối cao các phương tiện truyền thông. Trong khi các cơ quan chính quyền còn đang bối rối, báo chí đã bắt đầu trưng bày những vấn đề nghiêm trọng về kinh tế và xã hội mà chính quyền Sô viết từ lâu đã phủ nhận sự tồn tại và hiện đang giấu giếm. Các vấn đề như nhà cửa chất lượng thấp, chứng nghiện rượu, lạm dụng thuốc, ô nhiễm, các nhà máy đã hết hạn sử dụng từ thời Stalin, và tham nhũng từ mức độ nhỏ tới lớn, tất cả những thứ đó mà thông tin đại chúng chính thức từng bỏ qua. Hơn nữa, việc xử lý kém trong vụ tai nạn Chernobyl năm 1986 còn làm ảnh hưởng nhiều hơn nữa đến sự đáng tin cậy của chính phủ Sô viết vào thời điểm sự bất mãn đang gia tăng.

Tổng cộng, cái nhìn rất lạc quan về đời sống Sô viết vốn từ lâu được trưng ra trước công chúng bởi các phương tiện truyền thông nhà nước đã nhanh chóng bị lột trần, và những mặt trái của cuộc sống tại Liên bang sô viết bị đem ra ánh sáng. Điều này làm xói mòn niềm tin của công chúng trong hệ thống Sô viết và ăn mòn nền tảng quyền lực xã hội của Đảng cộng sản, đe doạ sự đồng nhất và toàn vẹn của chính Liên bang sô viết.

Sự cãi lộn bên trong các thành viên của khối Hiệp ước Varsaw và sự không ổn định của các đồng minh phương tây của nó, đầu tiên được đánh động bởi Lech Walesa khi ông lên nắm chức lãnh đạo Công đoàn đoàn kết, dọc theo biên giới phía Tây bị thúc giục, bỏ rơi Liên bang sô viết không thể dựa vào các nước vệ tinh của mình được nữa để bảo vệ biên giới. Năm 1989, Moscow đã từ bỏ học thuyết Brezhnev ủng hộ việc không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước vệ tinh. Dần dần, mỗi nước trong Hiệp ước Varsaw chứng kiến chính phủ cộng sản của họ sụp đổ sau những cuộc bầu cử nhân dân và trong trường hợp Romania là sự nổi lên của một cuộc bạo loạn. Tới năm 1991, chính phủ cộng sản tại Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Ba Lan được dựng lên sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã bị hạ bệ khi làn sóng cách mạng mới thổi qua Đông Âu.

Năm 1989, các hoàn cảnh chính trị của công khai thẳng thắn phản chiếu toàn bộ liên bang. Trong các cuộc bầu cử quốc hội địa phương của các nước cộng hoà thuộc Liên bang sô viết, những người thuộc phái quốc gia cũng như những nhà cải cách triệt để chiếm toàn bộ số ghế. Khi Gorbachev làm suy yếu hệ thống đàn áp chính trị bên trong, khả năng chính phủ trung ương tại Moscow của Liên bang sô viết áp đặt ý muốn của mình lên các nước cộng hoà đã bị xói mòn rất nhiều.

Sự nổi lên của chủ nghĩa quốc gia dưới làn sóng công khai thẳng thắn một lần nữa nhanh chóng đánh thức các căng thẳng sắc tộc tại nhiều nước cộng hoà Sô viết, làm tăng hơn nữa sự thiếu tin tưởng ý tưởng về một dân tộc Sô viết liên hiệp. Một thí dụ xảy ra vào tháng Hai 1988, khi chính phủ tại Nagorno-Karabakh, một vùng chủ yếu gồm người Armeni tại SSR Azerbaizan, thông qua một nghị quyết kêu gọi hợp nhất với Armenia SSR. Bạo lực chống lại người Azerbaizan địa phương đã được chiếu trên tivi Sô viết, gây ra nhiều cuộc thảm sát người Armenia tại thành phố Sumgai thuộc Azerbaizan.

Được khuyến khích thêm bởi không khí tự do hoá của công khai thẳng thắn, sự không hài lòng của công chúng với các điều kiện kinh tế còn mở rộng hơn bất kỳ thời nào trước đó ở Sô viết. Mặc dầu đổi mới được coi như là dũng cảm trong hoàn cảnh của lịch sử Sô viết, những cố gắng của Gorbachev nhằm cải cách kinh tế không triệt để đủ để tái khởi động nền kinh tế chậm chạp kinh niên vào cuối những năm 1980. Những cuộc cải cách tạo ra một số sự xâm nhập trong bỏ bớt tập trung hoá, nhưng Gorbachev và bộ máy của mình không đụng chạm đến đa phần những nhân tố căn bản của hệ thống kiểu Stalin, gồm cả kiểm soát giá cả, sự không chuyển đổi được của đồng ruble, không cho hưởng quyền sở hữu tài sản riêng, và sự độc quyền của chính phủ trong hầu hết các phương tiện sản xuất.

Tới năm 1990 chính phủ Sô viết trên thực tế đã mất quyền quản lý các điều kiện kinh tế. Chi tiêu chính phủ tăng đột ngột với một số lượng lớn các doanh nghiệp làm ăn không có lãi đòi hỏi trợ giúp của chính phủ và trợ giá hàng tiêu dùng tiếp tục. Nguồn thu từ thuế sụt giảm trong khi nguồn thu từ thuế rượu vodka vốn sụt giảm mạnh sau chiến dịch chống rượu và bởi vì các chính phủ cộng hoà và địa phương từ chối nguồn thu thuế từ chính phủ trung ương dưới sự nổi lên về tư tưởng tự trị địa phương. Việc loại trừ kiểm soát trung ương về các quyết định sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá, dẫn tới việc tan vỡ mối quan hệ nhà sản xuất-nhà cung cấp truyền thống, mà không dẫn tới việc tạo lên các mối quan hệ mới. Vì thế, thay vì tổ chức hợp lý hơn lại hệ thống, sự bỏ tập trung hoá của Gorbachev gây ra tình trạng đình trệ sản xuất mới.

Yeltsin và sự tan rã của Liên Xô

Gorbachev lên án Boris Yeltsin, kẻ đối địch cũ của ông ta và là tổng thống đầu tiên của nước Nga, đã xé tan đất nước với một mong muốn tăng cường quyền lợi cá nhân.

Vào ngày 7 tháng Hai 1990, Uỷ ban trung ương đảng cộng sản Liên bang sô viết đồng ý từ bỏ tình trạng độc quyền quyền lực. Các nước cộng hoà bắt đầu đòi chủ quyền của họ với Moscow, và đã bắt đầu một “cuộc chiến tranh pháp luật” với chính phủ trung ương Moscow, trong đó các chính phủ các nước cộng hoà chối bỏ một pháp chế tập hợp toàn bộ ở điểm nó xung đột với các luật lệ địa phương, đòi hỏi quyền kiểm soát các nền kinh tế của họ và từ chối trả thuế cho chính phủ trung ương Moscow. Cuộc tranh chấp này gây ra sự chuyển chỗ của kinh tế, khi các đường cung cấp trong nền kinh tế bị phá vỡ, và gây hậu quả nền kinh tế Sô viết suy sụp hơn nữa.

Gorbachev tung ra những cố gắng vô vọng và bất hạnh cuối cùng nhằm xác nhận quyền kiểm soát, đặc biệt đối với các nước cộng hoà vùng Baltic, nhưng quyền lực và uy quyền của chính phủ trung ương đã hoàn toàn và không thể bị đảo ngược xói mòn.

Ngày 11 tháng Ba, 1990 Lít va, dẫn đầu bởi vị chủ tịch Hội đồng tối cao mới được bầu là Vytautas Landsbergis, tuyên bố độc lập và thông báo rằng họ đã bị kéo ra khỏi Liên bang sô viết. Tuy nhiên, hồng quân có sự hiện diện mạnh mẽ ở Lít va. Liên bang sô viết khởi đầu một cuộc phong toả kinh tế Lít va và giữ các đội quân ở đó nhằm “giữ quyền lợi của những người Nga”.

Ngày 13 tháng Một, 1991 xung đột giữa quân đội Sô viết và những người dân thường Lít va không vũ khí đã xảy ra dẫn tới cái chết của 13 người và nhiều người bị thương. Điều này càng làm suy yếu tính hợp pháp của Liên bang sô viết, cả trên trường quốc tế và bên trong.

Ngày 30 tháng Ba, 1990, chỉ 19 ngày sau khi Lít va tuyên bố độc lập, Hội đồng tối cao Estonia tuyên bố quyền lực của Sô viết ở Estonia từ 1940 là bất hợp pháp, và đã bắt đầu một quá trình nhằm tái lập Estonia là một nước độc lập.

Ngày 17 tháng Ba, 1991, trong một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc, 78% dân chúng đồng ý duy trì Liên bang sô viết dưới một hình thức mới. Các nước Baltic, Armenia, Georgia và Moldova tẩy chay cuộc trưng cầu. Trong mỗi nước trong số chín nước cộng hoà, đa phần cử tri ủng hộ duy trì Liên bang sô viết. Tháng Sáu 1991, các cuộc bầu cử trực tiếp được tiến hành để bầu chức Tổng thống nước Nga SFSR. Ứng cử viên dân tuý Boris Yeltsin, người thường đưa ra các chỉ trích nhắm vào Mikhail Gorbachev thắng 57% số phiếu, đánh bại ứng cử viên yêu thích của Gorbachev là cựu chủ tịch Nikolai Ryzhkov người chỉ thắng 16% số phiếu.

Phải đối mặt với chủ nghĩa ly khai từ các nước cộng hoà, Gorbachev đã cố gắng tái cấu trúc Liên bang sô viết thành một nhà nước ít tập trung hơn. Ngày 20 tháng Tám, 1991 các nước cộng hoà đã ký một hiệp ước, biến họ thành các nước độc lập trong một liên bang với một tổng thống chung, chính sách ngoại giao và quân sự chung. Hiệp ước mới được các nước vùng Trung Á rất ủng hộ, bởi vì họ cần quyền lực kinh tế và thị trường của Liên bang sô viết để trở thành thịnh vượng. Tuy nhiên những nhà cải cách triệt để hơn ngày càng tin rằng một cuộc chuyển đổi nhanh chóng sang nền kinh tế thị trường là cần thiết và mong muốn được thấy sự tan rã của USSR nếu điều đó là cần thiết để thực hiện các mục tiêu của họ. Sự tan rã của USSR cũng được đồng thuận và mong muốn của các chính quyền địa phương như chức vụ của tổng thống Yeltsin, để thành lập quyền lực toàn bộ đối với lãnh thổ của họ. Trái ngược với sự lãnh đạm của những nhà cải cách về việc đạt tới một hiệp ước, những người bảo thủ và những người còn yêu mến USSR, vẫn còn mạnh bên trong CPSU và quân đội hoàn toàn chống đối bất kỳ điều gì có thể gây hại tới nhà nước Sô viết.

19 tháng Tám, 1991, phó tổng thống của Gorbachev, Gennadi Yanayev, thủ tướng Valentin Pavlov, bộ trưởng quốc phòng Dmitriy Yazov, Giám đốc KGB Vladimir Kryuchkov, và một số quan chức cao cấp khác hành động để ngăn chặn dấu hiệu của một hiệp ước liên bang bằng cách dựng lên “Uỷ ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp.” “Uỷ ban” đặt Gorbachev (đang trong kỳ nghỉ tại Crưm) trong tình trạng giam giữ tại gia và cố gắng khôi phục nhà nước liên bang. Những nhà lãnh đạo đảo chính nhanh chóng đưa ra một sắc lệnh khẩn cấp treo hoạt động chính trị và cấm đa phần báo chí.

Trong khi những người tổ chức đảo chính chờ đợi một số ủng hộ của dân chúng cho những hành động của họ, thì sự đồng cảm tại Moscow đa phần là chống lại họ. Hàng nghìn người xuống đường để bảo vệ “Nhà Trắng” (văn phòng của Yeltsin), lúc đó là cái ghế tượng trưng cho chủ quyền Nga. Những người tổ chức tìm cách bắt giữ nhưng hoàn toàn vô vọng Yeltsin, người tuần hành những cuộc chống đối lớn đảo chính.

Sau những ngày đó, vào 21 tháng Tám, vụ đảo chính sụp đổ, những người tổ chức bị bắt giam và Gorbachev quay trở lại làm tổng thống Liên bang sô viết. Tuy nhiên, lúc đó quyền lực của Gorbachev đã bị thoả hiệp một cách chết người bởi vì cơ cấu quyền lực tại không một nước cộng hoà nào và ngay cả nước Nga còn nằm trong tay ông. Qua mùa thu 1991, chính phủ Nga chiếm chính phủ liên bang, từng bộ một. Tháng Mười Một 1991, Yeltsin ra một nghị định cấm CPSU trên toàn nước Nga. Như một kết quả, nhiều thành viên lãnh đạo cộng sản cũ từ bỏ Đảng cộng sản nhằm kiếm một vị trí mới trong các cơ cấu chính quyền.

Sau vụ đảo chính, các nước cộng hoà Sô viết tăng cường quá trình hướng tới độc lập của họ, từng nước một tuyên bố chủ quyền. Các cơ quan địa phương bắt đầu nắm lấy các tài sản đang trong tay họ. Ngày 6 tháng Chín 1991, chính phủ Sô viết công nhận nền độc lập của ba nước Baltic, Sau đó ngày 6 tháng Mười Hai 1991, Ukraine tuyên bố độc lập khỏi USSR sau một cuộc trưng cầu dân ý với hơn 90% người dân ủng hộ độc lập.

Sự thành lập CIS

Ngày 8 tháng Mười Hai, 1991, những nhà lãnh đạo các nước cộng hoà Nga, Ukraina và Belarus gặp mặt tại Belavezhskaya Pushcha để đưa ra một tuyên bố rằng Liên bang sô viết đã bị giải tán và được thay thế bởi Khối thịnh vượng chung của các nước độc lập (CIS). Gorbachev miêu tả tuyên bố này là một vụ đảo chính bất hợp pháp và nguy hiểm về mặt thể chế. Tuy nhiên ông ta đã trở thành một tổng thống của không một nước nào cả.

Mười hai trong số mười lăm nước cộng hoà ký Hiến chương năng lượng châu Âu tại Hague ngày 17 tháng Mười Hai, 1991, với tư cách là các nước có chủ quyền, với 28 nước Châu Âu khác, Uỷ ban châu Âu và bốn nước không thuộc châu Âu.

Ngày 25 tháng Mười Hai, 1991, Gorbachev từ chức tổng thống USSR và bị thay thế bởi Boris Yeltsin. Ngày hôm sau, Sô viết tối cao bầu cử để bãi bỏ tuyên bố được viết năm 1922 việc chính thức thành lập USSR và tự giải tán. Tới 31 tháng Mười Hai, 1991, tất cả các định chế chính thức của Sô viết đã dừng hoạt động.

Tóm tắt

Bốn yếu tố chính của hệ thống Sô viết cũ là hệ thống cấp bậc của các Sô viết, chủ nghĩa liên bang sắc tộc, nhà nước gia xã hội chủ nghĩa và sự thống trị của Đảng cộng sản. Chương trình của Gorbachev về đổi mới và công khai thẳng thắn đã gây ra các ảnh hưởng sâu rộng và không lường trước dẫn tới tan vỡ hệ thống. Được coi là các phương tiện để phục hồi nhà nước Sô viết, Gorbachev liên tục cố gắng xây dựng một liên minh các lãnh đạo chính trị ủng hộ cải cách và tạo ra những phạm vi hoạt động mới và những nền tảng của quyền lực. Ông thực thi những biện pháp này bởi vì các vấn đề kinh tế và chính trị ì ạch không chịu thay đổi rõ ràng đang đe doạ đặt Liên bang sô viết trước một sự trì trệ kéo dài.

Nhưng bằng việc sử dụng các cải cách căn bản để mở rộng cơ hội cho các lãnh đạo và các phong trào dân chúng trong các nước cộng hoà có thêm được ảnh hưởng, Gorbachev cũng tạo cơ hội cho các thành phần quốc gia, những người cộng sản chính thống, và những lực lượng dân tuý chống lại các cố gắng của ông nhằm làm sống lại chủ nghĩa cộng sản Sô viết. Mặc dù một số trong những phong trào muồn thay thế toàn bộ hệ thống Sô viết bằng một hệ thống tự do và dân chủ hơn, những phong trào khác lại đòi quyền độc lập cho các nước cộng hoà. Hiện tại vẫn có nhiều người muốn phục hồi các cách thức Sô viết cũ. Đặc biệt, Gorbachev không thể đưa ra một sự thoả hiệp giữa các lực lượng đó và hậu quả là sự sụp đổ của Liên bang sô viết.

Tái cấu trúc thời hậu Sô viết

Ăn mày trên các đường phố thời hâu Sô viết trở thành ngày càng thường xuyên những năm 1990. Để tái cấu trúc hệ thống chính quyền mệnh lệnh Sô viết và thực hiện một cuộc chuyển đổi sang chủ nghĩa tư bản, chương trình sốc của Yeltsin, được đưa ra chỉ vài ngày sau sự giải tán Liên bang sô viết, cắt giảm trợ cấp cho các trang trai và các ngành công nghiệp, bãi bỏ kiểm soát giá cả, chuyển sang chế độ đồng ruble chuyển đổi được, tạo cơ hội cho những nhóm của ông và những nhà doanh nghiệp khác nắm lấy quyền sở hữu nhân dân và hướng về tái cơ cấu nền kinh tế sở hữu nhà nước. Sau khi nắm được quyền lực, đa phần những nhà cải cách về mặt ý tưởng chiếm được những phần lớn sở hữu nhờ vào phần chiếm giữ go lớn của họ trong cơ cấu chính phủ. Những định chế vốn có từ trước đã bị từ bỏ trước những cơ cấu hợp pháp của một nền kinh tế thị trường đã điều nghiên tài sản tư nhân, tổng quát thị trường tài chính và buộc hệ thống thuế phải hoạt động.

Các nhà kinh tế thị trường tin rằng sự phá huỷ hệ thống mệnh lệnh hành chính ở Nga sẽ làm tăng GDP và mức sống bằng cách phân phối các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả hơn. Họ cũng cho rằng sự sụp đổ sẽ tạo ra một làn sóng thúc đẩy khả năng sản xuất bằng cách hạn chế kế hoạch tập trung, thay thế một hệ thống thị trường tập trung hoá, giảm sự bóp méo thông qua tự do hoá, và cung cấp khuyến khích qua tư nhân hoá.

Hiện nay Nga đang phải đối mặt với nhiều vấn đề mà các nhà lập kế hoạch năm 1992 không mong chờ, gồm việc 25% dân số hiện sống dưới mức nghèo khổ, tuổi thọ giảm, tỷ suất sinh giảm, và GDP giảm, nó chỉ còn ở mức một nửa sau khi USSR sụp đổ. Trong con mắt của nhiều người thuộc thế hệ già ở Nga, cuộc sống dưới chế độ Sô viết tốt đẹp và bảo đảm hơn hiện nay. Các vấn đề đó dẫn tới một loạt các cuộc khủng hoảng trong thập kỷ 1990, gần dẫn tới việc đối thủ cộng sản của ông Yeltsin trúng cử vào cuộc bầu cử năm 1996.

Đọc thêm

  • Bôrít Enxin (Boris Yeltsin), Những ghi chép của tổng thống. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 1995
    • Nguyên bản: Б.Н.Ельцин, Записи президента. Москва: "Огонёк", 1994
  • V.A.Métvêđép (Medvedev), Êkíp Goócbachốp nhìn từ bên trong. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 1996
  • Professor Archie Brown, Reform, Coup and Collapse: The End of the Soviet State
  • Soviet Archives, collected by Vladimir Bukovsky
  • Frank E. Smitha, The Soviet Union Disintegrates

Liên kết ngoài