Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Made in Abyss”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Vehme way (thảo luận | đóng góp)
Tính năng gợi ý liên kết: 2 liên kết được thêm.
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Dòng 91: Dòng 91:
| producer =
| producer =
| music =
| music =
| genre = Nhập vai hành động
| genre = [[Trò chơi hành động nhập vai|Hành động nhập vai]]
| engine =
| engine =
| platforms = [[Microsoft Windows]], [[Nintendo Switch]], [[PlayStation 4]]
| platforms = [[Microsoft Windows]], [[Nintendo Switch]], [[PlayStation 4]]
| released = 2022
| released = 2 tháng 9 năm 2022
}}
}}
{{Infobox animanga/Footer}}
{{Infobox animanga/Footer}}

Phiên bản lúc 05:48, ngày 1 tháng 6 năm 2022

Made in Abyss
Bìa tập 1 của bộ truyện, bao gồm nhân vật Reg (trên) và Riko (dưới), trước miệng hố Abyss.
メイドインアビス
(Meido in Abisu)
Thể loạiPhiêu lưu, kỳ ảo u tối, khoa học viễn tưởng[1][2]
Manga
Tác giảAkihito Tsukushi
Nhà xuất bảnTakeshobo
Nhà xuất bản khác
Đài Loan Chingwin Publishing Group
Argentina Tây Ban Nha Editorial Ivrea
México Editorial Panini
Brasil NewPOP Editorial
Nga Reanimedia
Việt Nam NXB Hồng Đức
Đối tượngSeinen
Tạp chíWeb Comic Gamma
Đăng tải2012 – nay
Số tập10 (danh sách tập)
Anime truyền hình
Đạo diễnKojima Masayuki
Kịch bảnKurata Hideyuki
Âm nhạcKevin Penkin
Hãng phimKinema Citrus
Cấp phépNhật Bản Media Factory
Trung Quốc Đài Loan JY Animation
Tây Ban Nha Selecta Visión
Kênh gốcAT-X, Tokyo MX, TV Aichi, Sun TV, KBS, TVQ, STS, BS11
Phát sóng 7 tháng 7 năm 2017 29 tháng 9 năm 2017
Số tập13 (danh sách tập)
Loạt phim anime
  • Made in Abyss: Tabidachi no Yoake (メイドインアビス 旅立ちの夜明け?)
  • Made in Abyss: Hōrō Suru Tasogare (メイドインアビス 放浪する黄昏?)
Đạo diễnKojima Masayuki
Kịch bảnKurata Hideyuki
Âm nhạcKevin Penkin
Hãng phimKinema Citrus
Cấp phép
Sentai Filmworks
Phát sóng4 tháng 1 năm 2019 (Phần 1)
18 tháng 1 năm 2019 (Phần 2)
Thời lượng / tậpPhần 1 (119 phút)
Phần 2 (108 phút)
Phim anime
Made in Abyss: Fukaki Tamashī no Reimei (メイドインアビス 深き魂の黎明?)
Đạo diễnKojima Masayuki
Kịch bảnKurata Hideyuki
Âm nhạcKevin Penkin
Hãng phimKinema Citrus
Công chiếu17 tháng 1 năm 2020
Thời lượng105 phút
Anime truyền hình
Made in Abyss: Retsujitsu no Ōgonkyō
Đạo diễnKojima Masayuki
Kịch bảnKurata Hideyuki
Âm nhạcKevin Penkin
Hãng phimKinema Citrus
Cấp phépSentai Filmworks (kĩ thuật số và tại gia)
Phát sóng Tháng 7 năm 2022 – đang lên lịch
Trò chơi điện tử
Made in Abyss: Binary Star Falling into Darkness
Phát triểnSpike Chunsoft
Phát hànhSpike Chunsoft
Thể loạiHành động nhập vai
Hệ máyMicrosoft Windows, Nintendo Switch, PlayStation 4
Ngày phát hành2 tháng 9 năm 2022
 Cổng thông tin Anime và manga

Made in Abyss (Nhật: メイドインアビス Hepburn: Meido in Abisu?, tạm dịch: Đi vào Abyss) là một bộ manga của nam tác giả truyện tranh người Nhật Akihito Tsukushi xuất bản trực tuyến trên Web Comic Gamma của Takeshobo từ năm 2012 và tổng hợp thành 10 tập tankōbon. Câu chuyện kể về một cô bé mồ côi tên Riko, cùng cậu bạn người máy Reg phiêu lưu vào miệng hố "Abyss" để đi tìm người mẹ thất lạc của Riko. Bản anime truyền hình sản xuất bởi Kinema Citrus đã phát sóng mùa đầu tiên từ 7 tháng 7 năm đến 29 tháng 9 năm 2017, với mùa thứ hai dự kiến sẽ phát sóng vào tháng 7 năm 2022.

Cốt truyện

Câu chuyện xoay quanh về một cô gái mồ côi tên Riko sống ở trại trẻ mồ côi Belchero, nằm tại thị trấn Orth trên một hòn đảo giữa vùng biển Beoluska. Thị trấn Orth bao vây một cái hố khổng lồ đi sâu vào lòng đất, thường được gọi với cái tên Abyss (Vực thẳm). Abyss là nơi tụ tập của những loài sinh vật kì lạ và cũng là nơi chứa những món di vật quý hiếm từ nền văn minh cổ xưa mà con người chưa biết, mà sau đó nó đã trở thành nơi săn tìm phổ biến của Cave Raiders, tên gọi chung của những nhà thám hiểm bất chấp khó khăn, gian nan và nguy hiểm, để đi sâu vào hố và tìm những cổ vật họ thấy được. Trở về từ vực thẳm gây nhiều trở ngại hơn do "Lời nguyền của Abyss", gây chóng mặt, nôn mữa, đau toàn thân đến tử vong cho người thám hiểm khi càng xuống sâu. Một số Cave Raiders huyền thoại đã may mắn trở về và kể lại hành trình của họ, một trong số đó là Lyza được biết với danh hiệu Còi trắng, là mẹ ruột của Riko.

Khát vọng sống của Riko là theo bước chân mẹ cô trở thành một Còi trắng. Ngày nọ, cô tìm thấy và kết bạn với một cậu bé người máy ở Abyss, cậu được đặt tên là Reg. Riko cùng những người bạn của cô giúp Reg có thể vào được Belchero. Ngày kia, Riko đã đọc được một thông điệp của Lyka rằng mẹ cô đang chờ cô dưới đáy Abyss. Cô quyết định bắt đầu hành trình tìm mẹ cùng với Reg, chia tay bạn bè cũng như cả thị trấn.

Nhân vật

Nhân vật chính

Riko (リコ?)
Lồng tiếng: Tomita Miyu
Một cô bé 12 tuổi năng động và tinh nghịch, muốn trở thành một Cave Raider như mẹ người mẹ quá cố của mình, Lyza, đã biến mất ở Abyss từ mười năm trước (tính thời điểm hiện tại của câu chuyện). Riko hiện là một Cave Raider đang được huấn luyện tại trại trẻ mồ côi Belchero. Mặc dù chính sách của trại là đưa nộp những di vật tìm được để trả cho chi phí vận hành, nhưng cô đã bí mật sở hữu riêng mình một di vật tìm được, Star Compass, mà cô hy vọng sẽ sử dụng nó trong hành trình của mình. Lyza đã sinh cô ra trong một nhiệm vụ dưới Abyss. Lyza và Ozen đưa Riko lên bằng một thánh tích là "Vật kháng lời nguyền". Tuy nhiên, do Lời nguyền tác động, Riko phải đeo kính nếu không cô sẽ bị đau đầu khi nhìn bình thường.
Reg (レグ Regu?)
Lồng tiếng: Ise Mariya
Nửa người nửa robot bị mất trí nhớ với hình dạng một cậu bé. Reg không hề nhớ mình là ai, cậu được Riko đặt tên theo một chú chó mà cô từng sở hữu.[3] Cậu có thể tiêu thụ thực phẩm hữu cơ mặc dù là máy móc. Vũ khí của Reg là tay có khả năng kéo dài, và bắn ra một chùm năng lượng làm tan chảy cả đá.

Truyền thông

Manga

Tsukushi bắt đầu xuất bản bộ truyện trên Web Comic Gamma của Takeshobo từ năm 2012[4] và có tổng 9 tập tankōbon tính đến hiện nay. Seven Seas Entertainment thông báo tại Anime Expo 2017 rằng họ đã cấp phép cho manga bản tiếng Anh.[5]

Một bản manga tuyển tập có tên Meido in Abisu Kōshiki Ansorojī: Doshigataki Sagu-tachi (メイドインアビス公式アンソロジー 度し難き探窟家たち Meido in Abisu Kōshiki Ansorojī: Doshigataki Sagu-tachi?), đã phát hành vào 29 tháng 7 năm 2017 với ISBN là ISBN 978-4-80-196012-1.[6]

Danh sách tập truyện

#Ngày phát hành Tiếng NhậtISBN Tiếng Nhật
1 31 tháng 7 năm 2013[7]978-4-81-248380-0
2 30 tháng 6 năm 2014[8]978-4-81-248716-7
3 20 tháng 6 năm 2015[9]978-4-801952-74-4
4 30 tháng 4 năm 2016[10]978-4-801955-16-5
5 26 tháng 12 năm 2016[11]978-4-801957-20-6
6 29 tháng 17 năm 2017[12]978-4-801960-11-4
7 27 tháng 7 năm 2018[13]978-4-801963-39-9
8 30 tháng 5 năm 2019[14]978-4-8019-6627-7
9 27 tháng 7 năm 2020[15]978-4-8019-7029-8
10 29 tháng 7 năm 2021[16]978-4-8019-7390-9

Anime

Bản chuyển thể anime truyền hình được thông báo vào năm 2016.[4] Mười ba tập phim đã được phát sóng từ ngày 7 tháng 7 đến 29 tháng 9 năm 2017 trên các kênh AT-X, Tokyo MX, TV Aichi, Sun TV, KBS Kyoto, TVQ, Saga TV, và BS11,[17][18][19] với tập cuối (13) là tập đặc biệt dài 1 tiếng.[19] Kojima Masayuki đạo diễn bộ anime và kịch bản Kurata Hideyuki do chắp bút, với phần sản xuất hoạt họa thực hiện bởi Kinema Citrus và Kise Kazuchika thiết kế nhân vật.[4] Nghệ sĩ âm nhạc người Úc Kevin Penkin sáng tác phần nhạc.[19][20] Tomita MiyuIse Mariya, diễn viên lồng tiếng cho hai nhân vật Riko, Reg, đã thực hiện ca khúc mở đầu "Deep in Abyss" và ca khúc kết thúc "Tabi no Hidarite, Saihate no Migite", sau đó hợp tác thực hiện cùng với Izawa Shiori (vai Nanachi).[21]

Mùa anime thứ hai dự kiến phát sóng vào tháng 7 năm 2022. Ban nhân sự cũ trở lại sản xuất mùa này. Bài hát mở đầu là "Katachi" thể hiện bởi Azuna Riko, bài hát kết thúc là "Endless Embrace" thể hiện bởi MYTH & ROID.[22]

Hai bản tổng hợp các tập của phim, Made in Abyss: Tabidachi no Yoake (メイドインアビス 旅立ちの夜明け? "Journey's Dawn")Made in Abyss: Hōrō Suru Tasogare (メイドインアビス 放浪する黄昏? "Wandering Twilight"), đã phát hành vào ngày 4 tháng 1 và 18 tháng 1 năm 2019.[23] Hai bản này được thông báo vào tháng 11 năm 2017.[24]

Một bản phim dài tiếp theo với tên Gekijōban Made in Abyss: Fukaki Tamashii no Reimei (劇場版メイドインアビス 深き魂の黎明 Made in Abyss the Movie: Dawn of the Deep Soul?),[25] được khởi chiếu vào đầu năm 2020.[26]

Sentai Filmworks đã cấp phép cho bộ anime và khởi chiếu nó trực tuyến trên nền tảng Anime Strike tại Hoa Kỳ và trên Hidive ngoài Hoa Kỳ.[27][28] MVM Films đã phát hành bộ anime ở cả Anh quốc và Ireland,[29]Madman Entertainment đã phát hành ở Úc và New Zealand.[30] Sentai Filmworks cũng cấp phép cho hai bản tổng hợp[31] và hợp tác với Fathom Events khởi chiếu nó tại Regal Cinemas ở Los Angeles vào ngày 15 tháng 3 năm 2019.[32] Made in Abyss còn được chiếu rạp với phụ đề vào ngày 20 tháng 3 và chiếu kèm bản lồng tiếng Anh vào ngày 25 tháng 3.[33]

Thực hiện

  • Đạo diễn: Kojima Masayuki
  • Trợ lý đạo diễn: Haga Hitoshi, Iino Shinya
  • Chỉ đạo sản xuất: Tsuruta Mieko, Ota Mitsuhiro, Yamshita Shimpei, Tagaki Takayuki, Isogai Tokuchi
  • Âm thanh: Yamada Haru
  • Kịch bản: Koyanagi Keigo, Kurata Hideyuki
  • Âm nhạc: Kevin Penkin
  • Nghệ thuật: Masuyama Osamu
  • Chỉ đạo diễn hoạt: Kamada Akemi, Takeuchi Atsushi, Mori Satoshi, Takakura Takeshi, Taniguchi Yoshiaki
  • Thiết kế nhân vật: Kise Kazuchika
  • Nhiếp ảnh: Ema Tsunetaka
  • Thiết kế màu sắc: Yamashita Miyao

Danh sách tập phim

STT Tên
(dịch)
Đạo diễn Kịch bản Ngày phát sóng gốc T.k.
1"Ōana no Machi (大穴の街? Thành phố của hố lớn)"Haga HitoshiKurata Hideyuki7 tháng 7 năm 2017 (2017-07-07)[34]
2"Fukkatsu-sai (復活祭? Lễ phục sinh)"Mori SatoshiKurata Hideyuki14 tháng 7 năm 2017 (2017-07-14)[35]
3"Shuppatsu (出発? Khởi hành)"Sun Hi SonKurata Hideyuki21 tháng 7 năm 2017 (2017-07-21)[36]
4"Abyss no Fuchi (アビスの淵? Vực thẳm Abyss)"Iino ShinyaKoyanagi Keigo28 tháng 7 năm 2017 (2017-07-28)[37]
5"Kasō hō (火葬砲? Hỏa táng)"Kudō ToshiharuKoyanagi Keigo4 tháng 8 năm 2017 (2017-08-04)[38]
6"Kanshi kichi (Sneeker camp) (監視基地 (シーカーキャンプ)? Trạm tìm kiếm)"Haga HitoshiKoyanagi Keigo11 tháng 8 năm 2017 (2017-08-11)[39]
7"Fudō kyō (不動卿? Chúa tể bất động)"Iino ShinyaKurata Hideyuki18 tháng 8 năm 2017 (2017-08-18)[40]
8"Seizon Kunren (生存訓練? Huấn luyện sinh tồn)"Iino ShinyaKurata Hideyuki25 tháng 8 năm 2017 (2017-08-25)[41]
9"Dai Dansō (大断層? Lỗi lầm lớn)"Haga HitoshiKurata Hideyuki1 tháng 9 năm 2017 (2017-09-01)[42]
10"Doku to Noroi (毒と呪い? Độc và Lời nguyền)"Sun Hi SonKoyanagi Keigo8 tháng 9 năm 2017 (2017-09-08)[43]
11"Nanachi (ナナチ?)"Kudō ToshiharuKayanagi Keigo15 tháng 9 năm 2017 (2017-09-15)[44]
12"Noroi no Shōtai (呪いの正体? Bản chất thật của lời nguyền)"Kojima MasayukiKoyanagi Keigo22 tháng 9 năm 2017 (2017-09-22)[45]
13"Idomu Monatachi (挑む者たち? Thách thức)"Mori SatoshiKurata Hideyuki29 tháng 9 năm 2017 (2017-09-29)[a][46]

Đón nhận

Made in Abyss được đề cử giải Manga Taishō lần thứ 11 và nhận tổng điểm 40, xếp tại hạng 8.[47] Bộ manga còn thắng giải Anime of the Year (Anime của năm) và Best Score (Âm nhạc xuất sắc) tại 2017 Anime Awards của Crunchyroll.[48] Mặt khác, giới phê bình đã khen ngợi đây là một trong những bộ anime hay nhất năm 2017. Nick Creamer của Anime News Network đã ca ngợi anime tập trung tốt vào thể loại phiêu lưu, phần âm nhạc cũng như bối cảnh của Abyss.[49] Julian Malerman của THEM Anime nhận xét nó có đầy đủ yếu tố về mặt cảm xúc.[50]

Tham khảo

  1. ^ "Made in Abyss" Descends into Darkness in Sequel Series”. Crunchyroll. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  2. ^ “MADE IN ABYSS”. Sentai Filmworks. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  3. ^ chương 4, trang 14
  4. ^ a b c “Akihito Tsukushi's Made in Abyss Manga Gets TV Anime”. Anime News Network. 21 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 22 tháng 12 năm 2016. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  5. ^ “Seven Seas Licenses Made in Abyss, Nameless Asterism, Soul Liquid Chambers, Getter Robo Devolution Manga (Update)”. Anime News Network. 3 tháng 7 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  6. ^ “メイドインアビス公式アンソロジー 度し難き探窟家たち”. Takeshobo (bằng tiếng Nhật). Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  7. ^ “メイドインアビス(1)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  8. ^ “メイドインアビス(2)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  9. ^ “メイドインアビス(3)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  10. ^ “メイドインアビス(4)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  11. ^ “メイドインアビス(5)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  12. ^ “メイドインアビス(6)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 14 tháng 9 năm 2021.
  13. ^ “メイドインアビス(7)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  14. ^ “メイドインアビス(8)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 3 tháng 9 năm 2020.
  15. ^ “メイドインアビス(9)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 3 tháng 9 năm 2020.
  16. ^ “メイドインアビス(10)” (bằng tiếng Nhật). Takeshobo. Truy cập 14 tháng 9 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  17. ^ “Made in Abyss TV Anime Premieres in July”. Anime News Network. 22 tháng 3 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 22 tháng 3 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  18. ^ “Made in Abyss Anime Premieres on July 7”. Anime News Network. 26 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 26 tháng 5 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  19. ^ a b c “Made in Abyss Anime's Final Episode Airs as 1-Hour Special”. Anime News Network. 2 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 17 tháng 10 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  20. ^ May, Callum (4 tháng 10 năm 2017). “Interview: Made in Abyss Composer Kevin Penkin”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc 10 tháng 10 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  21. ^ “Made in Abyss Anime Reveals 2nd Promo Video, Theme Song Artists, More Cast”. Anime News Network. 9 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 10 tháng 7 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  22. ^ Made in Abyss Anime Season 2's 2nd Video Reveals New Characters & Their Cast, Theme Songs Anime News Network
  23. ^ Sherman, Jennifer (26 tháng 7 năm 2018). “Made in Abyss Compilation Films Reveal Visual, January Premieres”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  24. ^ “Made in Abyss Anime Gets Sequel”. Anime News Network. ngày 26 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2017.
  25. ^ Hodgkins, Crystalyn (4 tháng 1 năm 2018). “New Made in Abyss: Fukaki Tamashii no Reimei Anime Film Revealed with Teaser Visual”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  26. ^ Pineda, Rafael Antonio (22 tháng 3 năm 2019). “Made in Abyss: Fukaki Tamashii no Reimei Anime Film Opens in January 2020”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  27. ^ “Sentai Filmworks Licenses Made in Abyss Anime for Summer Simulcast”. Anime News Network. 26 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 7 tháng 7 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  28. ^ “HIDIVE Reveals Streaming Territories, Debut Dates For Battle Girl High School, Made in Abyss Anime”. Anime News Network. 30 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 3 tháng 10 năm 2017.
  29. ^ “Latest batch of announcements. Coming next year we've got Land of the Lustrous, Love & Lies, Made in Abyss and Princess Principal”. Twitter. Lưu trữ bản gốc 21 tháng 1 năm 2018. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  30. ^ “Made in Abyss Complete Season 1 (Blu-Ray) (Limited Edition)”. Madman Entertainment. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  31. ^ Ressler, Karen (16 tháng 11 năm 2018). “Sentai Filmworks Licenses Made in Abyss, DanMachi Films”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  32. ^ “First Film in Two-Part MADE IN ABYSS Series to Debut Spring 2019 for Special Engagement”. Sentai Filmworks. 22 tháng 1 năm 2019. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  33. ^ “For the First Time, 'MADE IN ABYSS' Comes to Movie Theaters Across the U.S. March 20 and 25 Only”. Sentai Filmworks. 29 tháng 1 năm 2019. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  34. ^ “第1話「大穴の街」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  35. ^ “第2話「復活祭」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  36. ^ “第3話「出発」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  37. ^ “第4話「アビスの淵」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  38. ^ “第5話「火葬砲”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  39. ^ “第6話「監視基地 (シーカーキャンプ)」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  40. ^ “第7話「不動卿」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 16 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  41. ^ “第8話「生存訓練」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 17 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  42. ^ “第9話「大断層」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 16 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  43. ^ “第10話「毒と呪い」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 17 tháng 9 năm 2017. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  44. ^ “第11話「ナナチ」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 15 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  45. ^ “第12話「呪いの正体」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 29 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  46. ^ “第13話「挑む者たち」”. Made in Abyss (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc 29 tháng 9 năm 2017. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  47. ^ Loo, Egan; Hodgkins, Crystalyn (22 tháng 3 năm 2018). “Paru Itagaki's BEASTARS Wins 11th Manga Taisho Awards”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  48. ^ Loveridge, Lynzee (25 tháng 2 năm 2018). “Made in Abyss, My Hero Academia Win Big at Crunchyroll's Anime Awards”. Anime News Network. Truy cập 22 tháng 4 năm 2019.
  49. ^ Creamer, Nick (25 tháng 10 năm 2017). “Made in Abyss Episodes 1-13 Streaming - Review”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập 25 tháng 4 năm 2019.
  50. ^ Malerman, Julian. “Made in Abyss”. THEM Anime Reviews. Lưu trữ bản gốc 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập 25 tháng 4 năm 2019.

Liên kết ngoài


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/> tương ứng, hoặc thẻ đóng </ref> bị thiếu