Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mehmed IV”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.7.3) (Bot: Sửa ckb:محەممەدی چوارەم
n →‎Liên kết ngoài: Fix thể loại năm sinh, năm mất using AWB
 
(Không hiển thị 24 phiên bản của 18 người dùng ở giữa)
Dòng 2: Dòng 2:
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = [[Tập tin:Osmanli-nisani.svg|25px]] Mehmed IV
| tên = [[Tập tin:Osmanli-nisani.svg|25px]] Mehmed IV
| tước vị =
| tước vị =
| thêm =
| thêm =
| hình = IV_Mehmet.jpg
| hình = IV_Mehmet.jpg
| cỡ hình = 170px
| cỡ hình = 170px
| ghi chú hình = Sultan Mehmed IV “Người đi săn”, tiểu họa thời Ottoman, hiện còn lưu giữ ở [[Istanbul]].
| ghi chú hình = Sultan Mehmed IV "Người đi săn", tiểu họa thời Ottoman, hiện còn lưu giữ ở [[Istanbul]].
| chức vị = [[Sultan]] của [[đế quốc Ottoman]]<br />[[Khalip]] của [[Hồi giáo]]
| chức vị = [[Sultan]] của [[đế quốc Ottoman]]<br>[[Khalip]] của [[Hồi giáo]]
| tại vị = [[1648]] – [[1687]]
| tại vị = [[1648]] – [[1687]]
| kiểu tại vị = Trị vì
| kiểu tại vị = Trị vì
| tiền nhiệm = <font color="grey">[[Ibrahim I]]</font>
| tiền nhiệm = [[Ibrahim I|<font color="grey">Ibrahim I</font>]]
| kế nhiệm = <font color="blue">[[Suleiman II]]</font>
| kế nhiệm = [[Suleiman II|<font color="blue">Suleiman II</font>]]
| tên đầy đủ =
| tên đầy đủ =
| hoàng tộc = [[Nhà Ottoman|Họ Osman]]
| hoàng tộc = [[Nhà Ottoman|Họ Osman]]
Dòng 18: Dòng 18:
| chồng =
| chồng =
| thông tin con cái = ẩn
| thông tin con cái = ẩn
| con cái = [[Mustafa II]]<br />[[Ahmed III]]
| con cái = [[Mustafa II]]<br>[[Ahmed III]]
| cha = [[Ibrahim I]]
| cha = [[Ibrahim I]]
| mẹ = [[Turhan Hatice]]
| mẹ = [[Turhan Hatice]]
Dòng 30: Dòng 30:
| chữ ký = Tughra of Mehmed IV.JPG
| chữ ký = Tughra of Mehmed IV.JPG
}}
}}
'''Mehmed IV''' ([[tiếng Thổ Ottoman]]: ''Meʰmed-i rābi`''; có biệt danh là ''Avcı'', tạm dịch là “Người đi săn) ([[2 tháng 1]] năm [[1642]] – [[6 tháng 1]] năm [[1693]]) là [[Danh sách sultan của đế quốc Ottoman|vị Sultan]] thứ 19 của [[đế quốc Ottoman]] từ năm [[1648]] đến [[1687]]. Mehmed IV lên ngôi khi mới 7 tuổi, và ông đã giao phần lớn quyền lực cho các [[Đại Vizia]].
'''Mehmed IV''' ([[tiếng Thổ Ottoman]]: ''Meʰmed-i rābi`''; có biệt danh là ''Avcı'', tạm dịch là "Người đi săn) ([[2 tháng 1]] năm [[1642]] – [[6 tháng 1]] năm [[1693]]) là [[Danh sách sultan của đế quốc Ottoman|vị Sultan]] thứ 19 của [[đế quốc Ottoman]] từ năm [[1648]] đến [[1687]]. Mehmed IV lên ngôi khi mới 7 tuổi, và ông đã giao phần lớn quyền lực cho các [[Đại Vizia]].Dưới thời trị vì của ông lãnh thổ [[Đế quốc Ottoman]] đã đạt đến lãnh thổ cực đại với 11,5 triệu km² và sau đó các lãnh thổ đều bị giảm sút một cách nhanh chóng


== Đầu đời ==
== Đầu đời ==
Ông chào đời năm 1642 ở [[Cung điện Topkapi]], [[thủ đô]] [[Constantinopolis]], là con của sultan [[Ibrahim I]] (1640–48) và [[Turhan Hatice]], [[:tr:Turhan Hatice Sultan]], một cung nữ [[Nga|người Nga]], và là cháu nội của [[Kösem|Kösem Sultan]] người gốc [[Hy Lạp]].<ref>E.van Donzel, Islamic Desk Reference:Compiled from the Encyclopaedia of Islam, Brill Academic Publishers, trang 219</ref><ref>Robert Bator, Daily Life IN Ancient and Modern Istanbul, Runestone Press, trang 42</ref><ref>Douglas Arthur Howard, The History of Turkey, Greenwood Press, trang 195</ref><ref>[http://www.britannica.com/eb/article-9046105/Kosem Sultan - Britannica Only Encyclopaedia]</ref> Turhan Hatice được phong làm [[Valide Sultan|Thái hậu]] năm 1648 khi Mehmed lên ngôi [[Sultan]]. Ít lâu sau khi ông ra đời, cha mẹ ông cãi nhau, và Ibrahim giằng Mehmed từ tay Turhan Hatice rồi vứt cậu bé xuống [[giếng]]. May thay, Mehmed được các a hoàn cung điện cứu vớt. Hành động này của vua cha làm Mehmed bị sứt đầu, đó là một vết thương suốt đời của Mehmed.<ref>''Inside the Seraglio'', Xuất bản năm 1999, Chapter 9:Three Mad Sultans</ref>
Ông chào đời năm 1642 ở [[Cung điện Topkapı]], tại kinh đô [[Constantinopolis]], là con của Sultan [[Ibrahim I]] (1640–48) và [[:tr:Turhan Hatice Sultan|Turhan Hatice]], một cung nữ [[Nga|người Nga]], và là cháu nội của [[Kösem|Kösem Sultan]] người gốc [[Hy Lạp]].<ref>E.van Donzel, Islamic Desk Reference:Compiled from the Encyclopaedia of Islam, Brill Academic Publishers, trang 219</ref><ref>Robert Bator, Daily Life IN Ancient and Modern Istanbul, Runestone Press, trang 42</ref><ref>Douglas Arthur Howard, The History of Turkey, Greenwood Press, trang 195</ref><ref>[http://www.britannica.com/eb/article-9046105/Kosem Sultan - Britannica Only Encyclopaedia]</ref> Turhan Hatice được phong làm [[Valide Sultan|Thái hậu]] năm 1648 khi Mehmed lên ngôi [[Sultan]]. Ít lâu sau khi ông ra đời, cha mẹ ông cãi nhau, và Ibrahim giằng Mehmed từ tay Turhan Hatice rồi vứt cậu bé xuống [[giếng]]. May thay, Mehmed được các a hoàn cung điện cứu vớt. Hành động này của vua cha làm Mehmed bị sứt đầu, đó là một vết thương suốt đời của Mehmed.<ref>''Inside the Seraglio'', Xuất bản năm 1999, Chapter 9:Three Mad Sultans</ref>


== Trị vì ==
== Trị vì ==
Mehmed IV lên kế vị năm 1648 khi mới 7 tuổi. Ông thừa hưởng một đế quốc ngự trị trên ba châu lục do các sultan đời trước gầy dựng nên.<ref>F. L. Carsten, "The new Cambridge modern history", tr. 500, CUP Archive, 1961</ref> Sự đăng quang của ông đánh dấu kết thúc một thời kì đầy hỗn loạn của [[nhà Ottoman]]; điển hình như việc [[Mustafa I]] bị hạ bệ hai lần và hai Sultan bị giết sau đó, trong số đó có cả [[Ibrahim I]], cha của Mehmed.
Mehmed IV lên kế vị năm 1648 khi mới 7 tuổi. Ông thừa hưởng một đế quốc ngự trị trên ba châu lục do các sultan đời trước gây dựng nên.<ref>F. L. Carsten, "The new Cambridge modern history", tr. 500, CUP Archive, 1961</ref> Sự đăng quang của ông đánh dấu kết thúc một thời kì đầy hỗn loạn của [[nhà Ottoman]]; điển hình như việc [[Mustafa I]] bị hạ bệ hai lần và hai Sultan bị giết sau đó, trong số đó có cả [[Ibrahim I]], cha của Mehmed.


=== Cuộc chiến với những người Cozak ===
=== Cuộc chiến với những người Cossack ===
[[Tập tin:Repin Cossacks.jpg|phải|nhỏ|250px|[[Những người Zaporozhe (tranh)|Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ]], họa phẩm nổi tiếng của [[Ilya Repin]].]]
[[Tập tin:Repin Cossacks.jpg|phải|nhỏ|250px|[[Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ]], họa phẩm nổi tiếng của [[Ilya Repin]].]]
{{Xem thêm|Ivan Sirko}}
{{Xem thêm|Ivan Sirko}}
Một sự kiện xảy ra dưới thời Mehmed IV nay còn được phần lớn người [[Ukraina]] và [[Nga]] nhớ tới. Năm [[1675]] (Evarnickij 1895:517) hoặc [[1678]] (Golobuckij 1957:320) liên quân Thổ Nhĩ Kỳ - [[Krym]] đã tấn công pháo đài của người Zaporozhia ở Sic' (Sec' theo [[tiếng Nga]]) và bị đẩy lui. Sau thất bại đó, Mehmed IV đã gửi thư cho những người [[Cozak]] [[Zaporozhia]], yêu cầu họ phải thần phục ông.<ref>[http://web.archive.org/web/20060915073432/http://humanities.uchicago.edu/depts/slavic/papers/Friedman-Zaporozhci.pdf]</ref> Những người Zaporozhia đã từ chối làm theo yêu cầu của ông, họ đã trả lời ông bằng một bức thư dài với lời lẽ lăng mạ và báng bổ. Bức thư này được hoạ sĩ người Nga là [[Ilya Repin]] tái hiện lại trong bức tranh nổi tiếng vào [[thế kỷ XIX]] là [[Những người Zaporozhe (tranh)|Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ]].
Một sự kiện xảy ra dưới thời Mehmed IV nay còn được phần lớn người [[Ukraina]] và [[Nga]] nhớ tới. Năm [[1675]] (Evarnickij 1895:517) hoặc [[1678]] (Golobuckij 1957:320) liên quân Thổ Nhĩ Kỳ - [[Krym]] đã tấn công pháo đài của người Zaporozhia ở Sic' (Sec' theo [[tiếng Nga]]) và bị đẩy lui. Sau thất bại đó, Mehmed IV đã gửi thư cho những người [[Cossack]] [[Zaporozhia]], yêu cầu họ phải thần phục ông.<ref>{{Chú thích web |url=http://humanities.uchicago.edu/depts/slavic/papers/Friedman-Zaporozhci.pdf |ngày truy cập=2006-09-15 |tựa đề=Bản sao đã lưu trữ |archive-date = ngày 15 tháng 9 năm 2006 |archive-url=https://web.archive.org/web/20060915073432/http://humanities.uchicago.edu/depts/slavic/papers/Friedman-Zaporozhci.pdf |url-status=dead }}</ref> Những người Zaporozhia đã từ chối làm theo yêu cầu của ông, họ đã trả lời ông bằng một bức thư dài với lời lẽ lăng mạ và báng bổ. Bức thư này được họa sĩ người Nga là [[Ilya Repin]] tái hiện trong bức tranh nổi tiếng vào [[thế kỷ 19|thế kỷ XIX]] là [[Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ]].


=== Tiếp đón Mary Fisher, nhà truyền giáo Quaker ===
=== Tiếp đón Mary Fisher, nhà truyền giáo Quaker ===
Dòng 47: Dòng 47:


== Bị phế truất và qua đời ==
== Bị phế truất và qua đời ==
Năm 1687, Mehmed IV bị đạo quân Yeğen Osman và Cấm vệ quân [[Janissary]] hạ bệ. Sau đó, ông bị giam vào [[Cung điện Topkapi]], em ông là [[Suleiman II]] lên thay. Dù vậy, ông được cho phép rời khỏi cung điện, và [[qua đời]] ở cung điện [[Erdine]]. Ông được chôn cất ở lăng mộ của mẫu hậu [[Turhan Hadice|Turhan Hadice Sultan]], gần thánh đường của bà ở [[Constantinopolis]]. Ít lâu trước khi ông mất năm 1691, một mưu đồ được khám phá ra rằng một nhóm giáo sĩ thâm niên có ý định phục hồi ngai vàng cho Mehmed, trong khi [[Suleiman II]] bị yếu tim.
Năm 1687, Mehmed IV bị đạo quân Yeğen Osman và Cấm vệ quân [[Janissary]] hạ bệ. Sau đó, ông bị giam vào [[Cung điện Topkapi]], em ông là [[Suleiman II]] lên thay. Dù vậy, ông được cho phép rời khỏi cung điện, và [[chết|qua đời]] ở cung điện [[Erdine]]. Ông được [[chôn cất]] ở lăng mộ của mẫu hậu [[Turhan Hadice|Turhan Hadice Sultan]], gần thánh đường của bà ở [[Constantinopolis]]. Ít lâu trước khi ông mất năm 1691, một mưu đồ được khám phá ra rằng một nhóm giáo sĩ thâm niên có ý định phục hồi ngai vàng cho Mehmed, trong khi [[Suleiman II]] bị yếu tim.


== Thành tựu ==
== Thành tựu ==
[[Tập tin:Battle of Vienna.MehmedIV.jpg|trái|nhỏ|200px|Sultan Mehmed IV (1642 - 1693)]]
[[Tập tin:Battle of Vienna.MehmedIV.jpg|trái|nhỏ|200px|Sultan Mehmed IV (1642 - 1693)]]


Sultan Mehmed IV được mệnh danh là ''Avcı'', tạm dịch là “Người đi săn” vì ông có thú vui săn bắn.
Sultan Mehmed IV được mệnh danh là ''Avcı'', tạm dịch là "Người đi săn" vì ông có thú vui săn bắn.


Triều đại ông cho thấy sự lớn mạnh của đế quốc Ottoman được phục hưng dưới quyền vị [[Đại Vizia]] tài ba, [[Mehmed Köprülü]] và con trai là [[Köprülü Fazıl Ahmet Pasha|Fazıl Ahmet]]. Köprülü chiếm các đảo [[Biển Aegean|Aegean]] từ tay [[Cộng hòa Venezia|người Venezia]] và thành công trong chiến tranh với [[Transylvania]] (1664) và [[Ba Lan]] (1670–1674). Công trạng lớn nhất của Ahmet là chinh phạt [[Candia]] năm 1669.<ref>F. L. Carsten, "The new Cambridge modern history", tr. 510, CUP Archive, 1961</ref> Vào thời kì đỉnh cao, khi bản thân Mehmed IV liên minh với [[Petro Doroshenko]], [[Podolia]] và [[Ukraina]] nằm dưới quyền kiểm soát của Ottoman. (Xem thêm bài [[Những người Zaporozhe (tranh)]] để biết về bức thư ông gửi những người [[Cozak]])
Triều đại ông cho thấy sự lớn mạnh của đế quốc Ottoman được phục hưng dưới quyền vị [[Đại Vizia]] tài ba, [[Mehmed Köprülü]] và con trai là [[Köprülü Fazıl Ahmet Pasha|Fazıl Ahmet]]. Köprülü chiếm các đảo [[Biển Aegean|Aegean]] từ tay [[Cộng hòa Venezia|người Venezia]] và thành công trong chiến tranh với [[Transilvania]] (1664) và [[Ba Lan]] (1670–1674). Công trạng lớn nhất của Ahmet là chinh phạt [[Candia]] năm 1669.<ref>F. L. Carsten, "The new Cambridge modern history", tr. 510, CUP Archive, 1961</ref> Vào thời kì đỉnh cao, khi bản thân Mehmed IV liên minh với [[Petro Doroshenko]], [[Podolia]] và [[Ukraina]] nằm dưới quyền kiểm soát của Ottoman. (Xem thêm bài [[Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ|Những người Zaporozhe (tranh)]] để biết về bức thư ông gửi những người [[Cossack]])


Vị [[Đại Vizia]] sau đó, [[Kara Mustafa]] ít thành công hơn. Được sự ủng hộ của cuộc khởi nghĩa của [[Imre Thököly]] ở Hungary chống lại hoàng đế [[Họ Habsburg|Áo]], Kara Mustafa phái một đạo quân vượt [[Hungary]] và bao vây thành [[Viên]] trong [[trận Viên]]. Trên đồi Kahlenberg, quân Ottoman bị đánh bại bởi vua Ba Lan [[Jan III Sobieski]] và đội quân chính quy của ông ta (1674–1695).
Vị [[Đại Vizia]] sau đó, [[Kara Mustafa]] ít thành công hơn. Được sự ủng hộ của cuộc khởi nghĩa của [[Imre Thököly]] ở Hungary chống lại hoàng đế [[Họ Habsburg|Áo]], Kara Mustafa phái một đạo quân vượt [[Hungary]] và bao vây thành [[Viên]] trong [[trận Viên]]. Trên đồi Kahlenberg, quân Ottoman bị đánh bại bởi vua Ba Lan [[Jan III Sobieski]] và đội quân chính quy của ông ta (1674–1695).


Ái phi của ông là [[Emetullah Rabia Gülnûş Sultan]], vốn là 1 nô lệ bị cầm tù ở [[Rethymnon]] (Resmo Thổ Nhĩ Kỳ) tại đảo [[Crete]].<ref>Theo một số nguồn, bà xuất thân là một người thuộc tộc [[Hy Lạp]] tên Evmania trong khi theo những nguồn khác thì bà xuất thân từ gia đình Verzini người [[Venezia]] định cư ở Crete.</ref> Hai người con của họ, [[Mustafa II]] và [[Ahmed III]], nối tiếp nhau làm sultan của đế quốc Ottoman (1695-1703) và 1703-1730).
Ái phi của ông là [[Emetullah Rabia Gülnûş Sultan]], vốn là 1 nô lệ bị cầm tù ở [[Rethymno]]n (Resmo Thổ Nhĩ Kỳ) tại đảo [[Kríti|Crete]].<ref>Theo một số nguồn, bà xuất thân là một người thuộc tộc [[Hy Lạp]] tên Evmania trong khi theo những nguồn khác thì bà xuất thân từ gia đình Verzini người [[Venezia]] định cư ở Crete.</ref> Hai người con của họ, [[Mustafa II]] và [[Ahmed III]], nối tiếp nhau làm sultan của đế quốc Ottoman (1695-1703) và 1703-1730).


== Xem thêm ==
== Xem thêm ==
Dòng 66: Dòng 66:


== Chú thích ==
== Chú thích ==
{{reflist}}
{{Tham khảo}}


== Liên kết ngoài ==
== Liên kết ngoài ==
{{commons2|Mehmed IV}}
{{commons2|Mehmed IV}}


{{Navboxes
{{Navboxes
Dòng 75: Dòng 75:
|list1=<span>
|list1=<span>
{{s-start}}
{{s-start}}
{{s-hou|[[Nhà Ottoman|Hoàng gia Osman]]||2 tháng 1, 1642||6 tháng 1, 1693}}[tuổi 51]
{{s-hou|[[Nhà Ottoman|Hoàng gia Osman]]||2 tháng 1 năm 1642||6 tháng 1 năm 1693}}[tuổi 51]
{{s-reg|}}
{{s-reg|}}
{{s-bef|before=[[Ibrahim I]]}}
{{s-bef|before=[[Ibrahim I]]}}
{{s-ttl|title=[[Danh sách sultan của đế quốc Ottoman|Sultan của đế quốc Ottoman]]|years=[[12 tháng 8]], [[1648]] - [[8 tháng 11]], [[1687]]}}
{{s-ttl|title=[[Danh sách sultan của đế quốc Ottoman|Sultan của đế quốc Ottoman]]|years=[[12 tháng 8]] năm [[1648]] - [[8 tháng 11]] năm [[1687]]}}
{{s-aft|after=[[Suleiman II]]}}
{{s-aft|after=[[Suleiman II]]}}
<!--{{s-rel|su}}-->
<!--{{s-rel|su}}-->
{{s-bef|before=[[Ibrahim I]]}}
{{s-bef|before=[[Ibrahim I]]}}
{{s-ttl|title=[[Danh sách các khalip|Khalip của Hồi giáo]]|years=[[12 tháng 8]], [[1648]] - [[8 tháng 11]], [[1687]]}}
{{s-ttl|title=[[Danh sách các khalip|Khalip của Hồi giáo]]|years=[[12 tháng 8]] năm [[1648]] - [[8 tháng 11]] năm [[1687]]}}
{{s-aft|after=[[Suleiman II]]}}
{{s-aft|after=[[Suleiman II]]}}
{{end}}
{{end}}
Dòng 89: Dòng 89:


{{Các chủ đề|Lịch sử|Đế quốc Ottoman}}
{{Các chủ đề|Lịch sử|Đế quốc Ottoman}}

{{DEFAULTSORT:Mehmed IV}}
{{DEFAULTSORT:Mehmed IV}}
[[Thể loại:Sinh năm 1642]]

[[Thể loại:Sinh 1642]]
[[Thể loại:Mất năm 1693]]
[[Thể loại:Mất 1693]]
[[Thể loại:Sultan nhà Ottoman thế kỉ 17]]
[[Thể loại:Sultan nhà Ottoman thế kỉ 17]]
[[Thể loại:Vua thiếu nhi hiện đại]]
[[Thể loại:Vua thiếu nhi hiện đại]]
Dòng 98: Dòng 98:
[[Thể loại:Nhân vật thời Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ]]
[[Thể loại:Nhân vật thời Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ]]
[[Thể loại:Sultan sinh ở Konstantiniyye]]
[[Thể loại:Sultan sinh ở Konstantiniyye]]

[[af:Mehmet IV]]
[[ar:محمد الرابع (عثماني)]]
[[az:IV Mehmed]]
[[id:Mehmed IV]]
[[ms:Mehmed IV]]
[[bs:Mehmed IV]]
[[br:Mehmet IV]]
[[bg:Мехмед IV]]
[[ca:Mehmet IV]]
[[da:Mehmed 4.]]
[[de:Mehmed IV.]]
[[el:Μωάμεθ Δ΄]]
[[en:Mehmed IV]]
[[es:Mehmed IV]]
[[eo:Mehmedo la 4-a]]
[[eu:Mehmed IV.a]]
[[fa:محمد چهارم]]
[[fr:Mehmed IV]]
[[ko:메흐메트 4세]]
[[hy:Մուհամմեդ IV]]
[[hr:Mehmed IV.]]
[[it:Mehmed IV]]
[[he:מהמט הרביעי]]
[[la:Mahometus IV (sultanus Ottomanicus)]]
[[lv:Mehmeds IV]]
[[hu:IV. Mehmed oszmán szultán]]
[[mk:Мехмед IV]]
[[mr:चौथा मेहमेद, ओस्मानी सम्राट]]
[[nl:Mehmet IV]]
[[ja:メフメト4世]]
[[no:Mehmed IV]]
[[pnb:محمد IV]]
[[pl:Mehmed IV]]
[[pt:Mehmed IV]]
[[ro:Mehmed al IV-lea]]
[[ru:Мехмед IV]]
[[sl:Mehmed IV.]]
[[ckb:محەممەدی چوارەم]]
[[sr:Мехмед IV]]
[[sh:Mehmed IV]]
[[fi:Mehmed IV]]
[[sv:Mehmet IV]]
[[tr:IV. Mehmed]]
[[uk:Мехмед IV]]
[[ur:محمد چہارم]]
[[zh:穆罕默德四世 (奥斯曼帝国)]]

Bản mới nhất lúc 13:38, ngày 13 tháng 12 năm 2021

Để biết về những người cùng tên, xin xem bài Mohammed IV.
Mehmed IV
Sultan Mehmed IV "Người đi săn", tiểu họa thời Ottoman, hiện còn lưu giữ ở Istanbul.
Sultan của đế quốc Ottoman
Khalip của Hồi giáo
Trị vì16481687
Tiền nhiệmIbrahim I
Kế nhiệmSuleiman II
Thông tin chung
Sinh2 tháng 1 năm 1642
Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ
Mất6 tháng 1 năm 1693
Erdine, Thổ Nhĩ Kỳ
Thê thiếpEmetullah Rabia Gülnûş Sultan
Hậu duệ
Hoàng tộcHọ Osman
Thân phụIbrahim I
Thân mẫuTurhan Hatice
Tôn giáoHệ phái Sunni của Hồi giáo
Chữ kýChữ ký của Mehmed IV

Mehmed IV (tiếng Thổ Ottoman: Meʰmed-i rābi`; có biệt danh là Avcı, tạm dịch là "Người đi săn) (2 tháng 1 năm 16426 tháng 1 năm 1693) là vị Sultan thứ 19 của đế quốc Ottoman từ năm 1648 đến 1687. Mehmed IV lên ngôi khi mới 7 tuổi, và ông đã giao phần lớn quyền lực cho các Đại Vizia.Dưới thời trị vì của ông lãnh thổ Đế quốc Ottoman đã đạt đến lãnh thổ cực đại với 11,5 triệu km² và sau đó các lãnh thổ đều bị giảm sút một cách nhanh chóng

Đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

Ông chào đời năm 1642 ở Cung điện Topkapı, tại kinh đô Constantinopolis, là con của Sultan Ibrahim I (1640–48) và Turhan Hatice, một cung nữ người Nga, và là cháu nội của Kösem Sultan người gốc Hy Lạp.[1][2][3][4] Turhan Hatice được phong làm Thái hậu năm 1648 khi Mehmed lên ngôi Sultan. Ít lâu sau khi ông ra đời, cha mẹ ông cãi nhau, và Ibrahim giằng Mehmed từ tay Turhan Hatice rồi vứt cậu bé xuống giếng. May thay, Mehmed được các a hoàn cung điện cứu vớt. Hành động này của vua cha làm Mehmed bị sứt đầu, đó là một vết thương suốt đời của Mehmed.[5]

Trị vì[sửa | sửa mã nguồn]

Mehmed IV lên kế vị năm 1648 khi mới 7 tuổi. Ông thừa hưởng một đế quốc ngự trị trên ba châu lục do các sultan đời trước gây dựng nên.[6] Sự đăng quang của ông đánh dấu kết thúc một thời kì đầy hỗn loạn của nhà Ottoman; điển hình như việc Mustafa I bị hạ bệ hai lần và hai Sultan bị giết sau đó, trong số đó có cả Ibrahim I, cha của Mehmed.

Cuộc chiến với những người Cossack[sửa | sửa mã nguồn]

Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ, họa phẩm nổi tiếng của Ilya Repin.

Một sự kiện xảy ra dưới thời Mehmed IV nay còn được phần lớn người UkrainaNga nhớ tới. Năm 1675 (Evarnickij 1895:517) hoặc 1678 (Golobuckij 1957:320) liên quân Thổ Nhĩ Kỳ - Krym đã tấn công pháo đài của người Zaporozhia ở Sic' (Sec' theo tiếng Nga) và bị đẩy lui. Sau thất bại đó, Mehmed IV đã gửi thư cho những người Cossack Zaporozhia, yêu cầu họ phải thần phục ông.[7] Những người Zaporozhia đã từ chối làm theo yêu cầu của ông, họ đã trả lời ông bằng một bức thư dài với lời lẽ lăng mạ và báng bổ. Bức thư này được họa sĩ người Nga là Ilya Repin tái hiện trong bức tranh nổi tiếng vào thế kỷ XIXNgười Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ.

Tiếp đón Mary Fisher, nhà truyền giáo Quaker[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1658 Mehmed IV đã đón tiếp và kiên nhẫn lắng nghe nhà truyền giáo Quaker người AnhMary Fisher, người tin rằng bà được Thượng đế gửi tới để nói chuyện với ông. Cuộc gặp gỡ này được biết chủ yếu thông qua ghi nhận rất có thiện chí của Fisher hơn là nguồn Ottoman, vì vậy người ta không rõ rằng sultan đã làm gì với thông điệp của bà (bản dịch đã được chuyển tới ông). Quan điểm cá nhân của ông, sự bao dung của ông thật trái ngược với những cuộc đàn áp tàn bạo mà Mary Fisher và những người Quaker khác phải hứng chịu ở quê nhà Anh Quốc.

Bị phế truất và qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1687, Mehmed IV bị đạo quân Yeğen Osman và Cấm vệ quân Janissary hạ bệ. Sau đó, ông bị giam vào Cung điện Topkapi, em ông là Suleiman II lên thay. Dù vậy, ông được cho phép rời khỏi cung điện, và qua đời ở cung điện Erdine. Ông được chôn cất ở lăng mộ của mẫu hậu Turhan Hadice Sultan, gần thánh đường của bà ở Constantinopolis. Ít lâu trước khi ông mất năm 1691, một mưu đồ được khám phá ra rằng một nhóm giáo sĩ thâm niên có ý định phục hồi ngai vàng cho Mehmed, trong khi Suleiman II bị yếu tim.

Thành tựu[sửa | sửa mã nguồn]

Sultan Mehmed IV (1642 - 1693)

Sultan Mehmed IV được mệnh danh là Avcı, tạm dịch là "Người đi săn" vì ông có thú vui săn bắn.

Triều đại ông cho thấy sự lớn mạnh của đế quốc Ottoman được phục hưng dưới quyền vị Đại Vizia tài ba, Mehmed Köprülü và con trai là Fazıl Ahmet. Köprülü chiếm các đảo Aegean từ tay người Venezia và thành công trong chiến tranh với Transilvania (1664) và Ba Lan (1670–1674). Công trạng lớn nhất của Ahmet là chinh phạt Candia năm 1669.[8] Vào thời kì đỉnh cao, khi bản thân Mehmed IV liên minh với Petro Doroshenko, PodoliaUkraina nằm dưới quyền kiểm soát của Ottoman. (Xem thêm bài Những người Zaporozhe (tranh) để biết về bức thư ông gửi những người Cossack)

Vị Đại Vizia sau đó, Kara Mustafa ít thành công hơn. Được sự ủng hộ của cuộc khởi nghĩa của Imre Thököly ở Hungary chống lại hoàng đế Áo, Kara Mustafa phái một đạo quân vượt Hungary và bao vây thành Viên trong trận Viên. Trên đồi Kahlenberg, quân Ottoman bị đánh bại bởi vua Ba Lan Jan III Sobieski và đội quân chính quy của ông ta (1674–1695).

Ái phi của ông là Emetullah Rabia Gülnûş Sultan, vốn là 1 nô lệ bị cầm tù ở Rethymnon (Resmo Thổ Nhĩ Kỳ) tại đảo Crete.[9] Hai người con của họ, Mustafa IIAhmed III, nối tiếp nhau làm sultan của đế quốc Ottoman (1695-1703) và 1703-1730).

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ E.van Donzel, Islamic Desk Reference:Compiled from the Encyclopaedia of Islam, Brill Academic Publishers, trang 219
  2. ^ Robert Bator, Daily Life IN Ancient and Modern Istanbul, Runestone Press, trang 42
  3. ^ Douglas Arthur Howard, The History of Turkey, Greenwood Press, trang 195
  4. ^ Sultan - Britannica Only Encyclopaedia
  5. ^ Inside the Seraglio, Xuất bản năm 1999, Chapter 9:Three Mad Sultans
  6. ^ F. L. Carsten, "The new Cambridge modern history", tr. 500, CUP Archive, 1961
  7. ^ “Bản sao đã lưu trữ” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2006.
  8. ^ F. L. Carsten, "The new Cambridge modern history", tr. 510, CUP Archive, 1961
  9. ^ Theo một số nguồn, bà xuất thân là một người thuộc tộc Hy Lạp tên Evmania trong khi theo những nguồn khác thì bà xuất thân từ gia đình Verzini người Venezia định cư ở Crete.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]